Phạm Cao Dương
Bồng bồng mẹ bế con sang,
Đò dọc quan cấm,
đò ngang không chèo.
Muốn sang thì
bắc cầu kiều,
Muốn con hay
chữ thì yêu lấy thày.
(Ca
dao Việt Nam)
“Tôi muốn thấy
có sự kính trọng trong một trường học. Ông thày tới,
học trò phải
nghiêm chỉnh đứng dạy chào thày…”
Nicolas
Sarkozy, khi tranh cử Tổng Thống Pháp (Từ Nguyên)
Một người bạn mới về thăm Việt Nam trở lại Mỹ trước
ngày Lễ Tạ Ơn 2016 ít ngày cho biết rất nhiều người trong nước hiện tại đã đánh
giá cao nền giáo dục ở Miền Nam thời trước năm 1975; riêng bà con ở Miền Nam lại
lấy làm hãnh diện là đã được đào tạo bởi nền giáo dục ấy, trong những học đường
Miền Nam và bởi các thày cô Miền Nam. Bạn tôi là một nhà nghiên cứu. Anh
đã khách quan kể lại không thêm bớt. Sau đó dư luận lại ồn ào về chuyện xảy
ra ở trong nước: 21 cô giáo ở Thị Xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh bị Ủy Ban Nhân Dân
tỉnh ép phải “tiếp khách, rót rượu, hát karaoke” cho quan khách. Chưa hết,
các nạn nhân lại còn bị vị Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, ông Phùng Xuân Nhạ,
thay vì bênh vực cho những nhân viên thấp cổ bé miệng nhất của bộ mình, trước sự
bắt nạt của những ông vua con ở các địa phương, lại công khai trách cứ họ là
không biết phản đối, khiến dư luận trong và ngoài nước vô cùng phẫn nộ, nhiều
người lấy làm tủi hổ. Việc làm của các quan chức Cộng Sản tỉnh Hà Tĩnh
này phải nói là chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử dân tộc Việt Nam, một dân tộc
luôn luôn hãnh diện tự coi mình là có nhiều ngàn năm văn hiến.
Nhân dịp này, tôi xin được cùng bạn đọc ôn lại những
ưu điểm qua một số những đặc tính cơ bản của sinh hoạt giáo dục ở Miền Nam thời
trước năm 1975 nói riêng và văn hóa miền Nam nói chung, chính yếu là sự liên tục
lịch sử. Nói như vậy không phải là trong thời gian này miền đất của tự do và
nhân bản mà những người Quốc Gia còn giữ được không phải là không trải qua nhiều
xáo trộn. Chiến tranh dưới hình thức này hay hình thức khác luôn luôn tồn tại
và có những thời điểm người ta nói tới các chế độ độc tài hay quân phiệt và
luôn cả cách mạng. Nhưng ngoại trừ những gì liên hệ tới chế độ chính trị, quân
sự hay an ninh quốc gia, sinh hoạt của người dân vẫn luôn luôn diễn ra một cách
bình thường, người nào việc nấy, người nào trách nhiệm nấy và được tôn trọng
hay tôn trọng lẫn nhau. Sự liên tục lịch sử do đó đã có những nguyên do để tồn
tại, tồn tại trong sinh hoạt hành chánh, tồn tại trong sinh hoạt tư pháp, trong
văn chương và nghệ thuật và tồn tại đương nhiên trong sinh hoạt giáo dục. Trong
bài này tôi chỉ nói tới tới giáo dục và giáo dục công lập. Đây không phải là một
bài khảo cứu mà chỉ là một bài nhận định và những nhận định được nêu lên chỉ là
căn bản, sơ khởi, và tất nhiên là không đầy đủ. Đồng thời mỗi người có thể có
phần riêng của mình.Một sự nghiên cứu kỹ càng, có phương pháp hơn và đầy đủ hơn
là một điều cần thiết.
Giáo dục là của những người
làm giáo dục
Giáo dục công lập ở Việt Nam đã có từ lâu đời và tùy
theo nhận định của các sử gia, tới một mức độ nào đó định chế này đã tồn tại
trên dưới mười thế kỷ. Mục đích của nó là để đào
tạo nhân tài cho các chế độ, nói riêng, và cho đất nước, nói chung. Các
vua chúa Việt Nam thời nào cũng vậy, cũng coi trọng việc học cả. Có điều coi trọng
thì coi trọng, các vua Việt Nam, nói riêng và các triều đình Việt Nam, nói
chung, chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo là tổ
chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào sinh hoạt
giảng dạy của các trường, hầu hết là các trường tư ở rải rác khắp trong nước.
Sinh hoạt này hoàn toàn do các thày ở các trường do các tư nhân đảm trách. Giáo
dục là của người dân và của những người làm giáo dục, và cho đến khi người Pháp
sang, nó là của giới trí thức đương thời, đúng hơn là của các nhà Nho với tất cả
những học thuyết, những nguyên tắc căn bản của giới này.
Sang thời Pháp, do nhu cầu bảo vệ và phát triển văn
minh và văn hóa của họ, người Pháp lập ra một nền giáo dục mới, nhưng việc điều hành, việc soạn thảo chương trình vẫn được giao
cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn hay ít ra là lựa chọn nghề dạy học
với tinh thần quí trọng kiến thức và yêu mến nghề dạy học dù chỉ là tạm
thời về phía người Pháp cũng như về phía người Việt. Họ mở các trường sư phạm để
huấn luyện giáo chức chuyên nghiệp.
Đặc tính kể trên đã liên tục được tôn trọng trong suốt
thời gian miền Nam tồn tại và luôn cả trước đó, từ thời Chính Phủ Quốc Gia của
Cựu Hoàng Bảo Đại. Chức vụ bộ trưởng hay tổng trưởng giáo dục có thể là do các
chính trị gia hay những người thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng trong việc
lựa chọn nhân sự điều hành trong bộ, ngoại trừ các chức vụ có tính cách chính
trị như đổng lý văn phòng, chánh văn phòng, bí thư tức thư ký riêng của bộ trưởng...
tất cả các chức vụ chỉ huy khác trong bộ, từ thứ trưởng,
tổng thư ký, tổng giám đốc, giám đốc cho tới các hiệu trưởng các trường và
đương nhiên là các giáo sư, giáo viên, đều là những nhà giáo chuyên nghiệp,
không có đại diện đảng phái chính trị ở bên cạnh. Lý do rất đơn giản: họ
là những người vô tư, biết việc, rành công việc và có kinh nghiệm, chưa kể tới
sự yêu nghề. Chính trị đối với họ chỉ là nhất thời, tương lai của cả một dân tộc,
hay ít ra là của những thế hệ tới mới, là quan trọng.
Trong phạm vi lập pháp,
rõ hơn là ở quốc hội, các chức vụ đứng đầu các ban hay tiểu ban, dù là thượng
viện hay hạ viện đều do các nghị sĩ hay dân biểu gốc nhà giáo phụ trách. Ngoại
trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đã
ngưng lại trước ngưỡng cửa của học đường. Thày cô giáo
là nhân viên của bộ giáo dục, do bộ giáo dục bổ nhiệm, trực thuộc vị hiệu trưởng
của trường sở tại , rồi các nha sở của bộ giáo dục ở trung ương chứ không trực
thuộc các quận hay tỉnh trưởng.
Về tên các trường, tất cả các trường
trung, tiểu học đều được gọi bằng tên của các danh nhân hay anh hùng dân tộc thời
trước,
được mọi người công nhận, Trưng Vương, Ngô Quyền, Chu Văn An, Đoàn Thị Điểm,
Gia Long, Petrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản,
Lê Ngọc Hân, …không hề có tên nào là của các lãnh tụ đương thời dù đó là Bảo Đại,
Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, kể cả Trần Văn Hương gốc nhà
giáo… thay vì những tên hoàn toàn xa lạ đối với quảng đại quần chúng Miền Nam về
sau này như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám…, những
người của một đảng chính trị hay, tệ hơn nữa, là ngụy tạo, không có thật.
Tôn chỉ và mục đích nhằm
hướng tới quốc gia, dân tộc và con người, dựa trên những truyền thống đã có từ
lâu đời
Nói tới ba nguyên tắc căn bản, đồng thời cũng là tôn
chỉ và mục đích tối hậu của nền giáo dục của miền Nam trước năm 1975, có người
tỏ ý không thích ba nguyên tắc này. Lý do có lẽ, tôi chỉ đoán như vậy, là vì ba
nguyên tắc này phần nào đã được người Cộng Sản Việt Nam nêu lên trong Đề Cương
Văn Hóa 1943 của họ. Ba nguyên tắc đó là Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, sau
này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong khi trong Đề Cương Văn Hóa của
Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại Chúng và Khoa Học… Ở đây người viết
không đi sâu vào khía cạnh này vì dù không thích, không đồng ý, ba nguyên tắc Dân Tộc,
Nhân Bản và Khai Phóng này vẫn
đã trở thành căn bản của nền giáo dục của miền Nam mà không ai lưu tâm tới
vấn đề là không biết. Chúng đã giúp cho nền giáo dục này giữ được những truyền
thống cơ bản của dân tộc và phát triển một cách vững vàng từng bước một để theo
kịp với đà tiến triển của cả nhân loại mà không chạy theo những gì của thời thượng
để trở thành lai căng, mất gốc, đồng thời cũng không bị gán cho là bảo thủ, lỗi
thời… Tính cách liên tục lịch sử của nền giáo dục của miền Nam sở dĩ có được,
phần nào là dựa trên những nguyên tắc này, đặc biệt là nguyên tắc Dân Tộc. Nó
cho phép người ta đề cao và bảo tồn những truyền thống dân tộc trong học đường,
dù đó là những truyền thống thuần túy Việt Nam hay những truyền thống của Khổng
giáo.
Đôi câu đối được khắc trên cổng chính của một trong những trường trung học
lớn nhất của miền Nam là trường Petrus Trương Vĩnh Ký sau đây là một trường hợp
điển hình:
Khổng Mạnh cương cường tu khắc cốt
Âu Tây khoa học yếu minh tâm
Sự khủng hoảng hiện tại của nền giáo dục ở trong nước
là do ở sự thiếu những yếu tố chỉ đạo này. Điều này đã được thấy rõ qua sự
vô cùng lúng túng của Ông Vũ Đức Đam, đương kim Phó Thủ Tướng, đặc trách
văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục và đào tạo trong một buổi điều trần trước
Quốc hội và bị hỏi câu hỏi là “có
hay không một triết lý giáo dục Việt Nam?”
Điều khiến cho người ta ngạc
nhiên là không lẽ là một cán bộ ở cấp cao chuyên lo về văn hóa, như vậy, ông lại
không biết tới Đề Cương Văn Hóa 1943 của Đảng Cộng Sản Việt
Nam trong đó ba nguyên tắc cơ bản chỉ đạo cho các vận dụng văn hóa, nói chung,
văn học và giáo dục… nói riêng, là: dân tộc hóa, đại chúng hóa,
và khoa học hóa đã được nêu cao hay sao? Không lẽ ba nguyên tắc
này đã trở thành lạc hậu trong tình thế mới, trước quyền hành và quyền lợi của
Đảng Cộng Sản Việt Nam?
Liên tục trong phạm vi
nhân sự
Nhân sự ở đây không ai khác hơn là các
nhà giáo, căn bản là các nhà giáo chuyên nghiệp. Tôi muốn nói tới
các nhà giáo tốt nghiệp từ các trường sư phạm, những người ngay từ thuở thiếu
thời đã chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho mình và chỉ sống bằng nghề dạy học,
vui với nghề dạy học hãnh diện với vai trò làm thày, làm cô của mình, dù đó là
sư phạm tiểu học hay sư phạm trung học. Một nghề bị coi là “bạc nghệ”, là bị xếp
sau so với các nghề khác:
Dưa leo ăn với cá kèo,
Cha mẹ anh nghèo, anh học noọc-man.
Tất cả các vị này vẫn còn nguyên vẹn khi đất nước bị
qua phân và đã ở các trường trong Nam khi các trường này được mở cửa trở lại
sau một thời gian chiến tranh bị tạm đóng cửa, không mấy người tập kết ra Bắc.
Sau khi đất nước bị chia cắt và qua cuộc di cư của
non một triệu người từ miền Bắc vô Nam, họ lại được tăng cường thêm bởi một số
đông các đồng nghiệp của họ từ miền Bắc vô cùng với các trường được gọi là Bắc
Việt di chuyển: Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương, Hồ Ngọc Cẩn,
Trần Lục... Tất cả đã cùng nhau hướng dẫn và điều hành các học đường miền Nam
trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp thuộc sang độc lập, đồng thời cũng là những
giảng viên cơ bản trong các trường huấn luyện giáo chức thuộc thế hệ mới. Từ
phong thái đến cách giảng dạy, từ cách vào lớp, cho phép học trò ngồi, tới cách
viết bảng và xóa bảng, cách chấm bài hay phê bài, các vị này đã để toát ra một
sự chừng mực và vô cùng thận trọng của những nhà sư phạm nhà nghề, khác hẳn với
một số các đồng nghiệp của họ từ ngoại quốc về chỉ lo dạy các môn học chuyên
môn. Học đường do đó đã tránh được nạn chánh trị hóa,
tránh được nạn cán bộ chánh trị xâm nhập. Nhiều vị vào những lúc tình thế
vô cùng tế nhị đã giữ được thế vô tư và độc lập, nghiêm chỉnh của học đường và
tư cách của giáo chức. Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này nhiều vị
xuất thân là cử, tú, kép, mền, luôn cả tiến sĩ của thời trước, những người tinh
thâm Nho học, vẫn còn có mặt ở các học đường, đặc biệt là các Đại Học Văn Khoa ở
Saigon và Huế như Tiến Sĩ Nguyễn Sĩ Giác, Cử Nhân Thẩm Quỳnh, Tú Tài Kép Vũ Huy
Chiểu... mà không ai là không quý trọng.
Hệ thống tổ chức, tổ chức
thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của Chương Trình Pháp
và Chương Trình Hoàng Xuân Hãn, Phan Huy Quát
Đây là một trong những đặc tính căn bản của nền giáo
dục của miền Nam trong suốt thời kỳ nền giáo dục này tồn tại. Những gì người
Pháp thiết lập không những không bị hủy bỏ, coi như tàn tích của chế độ thực
dân, đế quốc mà còn được thận trọng giữ gìn, song song với việc bảo tồn truyền
thống văn hóa cổ truyền và đạo đức của dân tộc. Người
Việt ở miền Nam trong tinh thần cởi mở và tự do đã biết phân định những gì là
kìm kẹp và những gì là hay đẹp mà một chế độ chính trị đem lại, thay vì cứ nhắm
mắt đập bỏ để sau này hối tiếc. Các nhà làm giáo dục ở miền Nam đã tỏ ra
vô cùng thận trọng trong mọi quyết định. Những gì gọi là cách mạng vội vã, nhất
thời dường như không được chấp nhận. Họ chủ trương cải tổ để thích ứng với hoàn
cảnh mới và cải tổ từ từ, kể cả khi thế lực và ảnh hưởng của người Mỹ, từ đó áp
lực của họ đã trở nên rất mạnh. Hệ thống giáo dục do người Pháp từ tiểu học cho
đến đại học đã tồn tại dưới hình thức Việt hóa bắt đầu từ thời chính phủ Trần
Trọng Kim năm 1945, với chương trình Hoàng Xuân Hãn, vị bộ trưởng giáo dục
đương thời, sau này là Phan Huy Quát thời Quốc Gia Việt Nam mới được thành lập.
Nó cho phép người ta, từ thày đến trò, dễ dàng chuyển sang một nền giáo dục mới
của một quốc gia độc lập không hề có chuyện trục trặc. Ngay từ cuối niên học
1944-1945, trong rất nhiều khó khăn, từ giao thông, vận chuyển đến thông tin,
liên lạc, người ta đã tổ chức được những kỳ thi ở bậc tiểu học bằng tiếng Việt
mà không hề có chuyện than phiền, khiếu nại. Điều nên nhớ là Chính Phủ Trần Trọng
Kim chỉ tồn tại có vẻn vẹn bốn tháng hay hơn một trăm ngày, vô cùng ngắn ngủi,
với những phương tiện giao thông và liên lạc hết sức nghèo nàn. Sau này
khi gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, miền Nam đã không gặp phải những khó
khăn trong việc đối chiếu bằng cấp, hệ thống học và khả năng của các đương sự,
không phải chỉ riêng cho những ai muốn sang du học bên Pháp mà luôn cả cho những
ai muốn sang các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Nhật... vì đó là
một hệ thống giống như các hệ thống khác thuộc thế giới tây phương, một hệ thống
gần với hệ thống chung của quốc tế.
Duy trì mối liên tục lịch sử cũng cho phép người ta
sử dụng được các sách giáo khoa của người Pháp và những sách giáo khoa về lịch
sử và văn chương Việt Nam do chính người Việt soạn thảo từ thời trước năm 1945
và sau đó là từ năm 1947 đến năm 1954 ở những vùng đất của người quốc gia. Điển
hình là các sách toán và khoa học bằng tiếng Pháp, do các tác giả Pháp soạn và
xuất bản ở bên Pháp nhưng đã được không những các thày mà luôn cả các trò sử dụng
làm tài liệu hay để tự học. Trong phạm vi văn chương, những sách của
Dương Quảng Hàm, đặc biệt là hai cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu và Việt
Nam Thi Văn Hợp Tuyển đã được dùng rất lâu dù cho nhiều sách giáo khoa
khác đầy đủ hơn đã được soạn thảo. Cũng vậy, trong phạm vi sử học với cuốn Việt
Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Về nội dung,
đặc biệt là trong văn học, người ta cũng thấy nền giáo dục của miền Nam vẫn giữ
được tinh thần tự do, cởi mở. Các tác giả được đem dạy hay trích dẫn đã
được lựa chọn căn cứ vào giá trị của các công trình của họ thay vì gốc gác và sự
lựa chọn chế độ của họ, thay vì căn cứ vào chuyện họ ở miền Bắc hay ở miền Nam
trong thời gian này. Tô Hoài, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân... là những
trường hợp điển hình.
Trong phạm vi thi cử, các kỳ thi được thiết lập từ
thời Pháp hay có ở bên Pháp vẫn được duy trì, đặc biệt là hai kỳ thi tú tài. Ở
bậc đại học hệ thống tổ chức cũng tương tự. Ảnh hưởng của người Mỹ chỉ được chấp
nhận một cách từ từ với nhiều thận trọng, mặc dầu người Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền
bạc và nhân sự qua các chương trình viện trợ khiến cho nhiều người Mỹ đã tỏ vẻ
bất bình. Hình thức thi trắc nghiệm áp dụng cho các kỳ thi tú tài chỉ được thực
hiện rất trễ về sau này và dư luận đã đón nhận nó với những nhận định khác
nhau. Tiếc rằng chỉ vài năm sau Miền Nam đã không còn nữa.
Trong phạm vi tổ chức thi cử, người ta có thể thấy
không riêng gì quan niệm, cách tổ chức, cách coi thi và chấm thi cũng như cách
cho điểm, định kết quả và công bố kết quả hãy còn chịu ảnh hưởng nhiều của người
Pháp mà còn luôn cả những thời quân chủ trước đó nữa. Quyền uy của các giám khảo,
các chánh phó chủ khảo, các giám thị đã luôn luôn được tôn trọng và nhiều vị chủ
khảo đã tỏ ra vô cùng can đảm giữ thế độc lập cho mình hay biết khôn ngoan né
tránh cho mình và cho các đồng nghiệp của mình khi phải lãnh nhiện vụ ở những
vùng xa thủ đô Saigon, an ninh và giao thông không bảo đảm. Nên nhớ là trong thờ
gian này hệ thống trung ương tập quyền vẫn còn tồn tại. Ra đề thi, in đề thi và
gửi đề thi về địa phương với tất cả sự bảo mật cần thiết là vô cùng khó khăn, tế
nhị và phức tạp. Về phía chính quyền thì từ trung ương đến địa phương hầu như
không hề có sự trực tiếp can thiệp. Báo chí, các cơ quan truyền thông vẫn luôn
luôn hiện diện và sẵn sàng phanh phui mọi chuyện.
Một Xã hội tôn trọng sự học
và những người có học
Đây là một trong những đặc tính cơ bản của
văn hóa Việt Nam mà xã hội Miền Nam nói chung và nền giáo dục Miền Nam nói
riêng thời trước năm 1975 được thừa hưởng. Đặc tính này đã được
biểu lộ không riêng qua tinh thần tôn sư trọng đạo mà còn được coi như một giá
trị và là một giá trị đứng đầu trong mọi giá trị. Sự học là một giá trị và giáo
dục là một giá trị. Sự học hay giáo dục làm nên con người chứ không phải là những
yếu tố khác, dù đó là quyền uy và tiền bạc. Người làm công tác giáo dục được
tôn trọng và từ đó có được những điều kiện ít ra là về phương diện tinh thần để
thực thi sứ mạng của mình mà những người làm chánh trị, những nhà chủ trương
cách mạng, kể cả những người cấp tiến nhất cũng phải kiêng nể. Nhưng bù lại,
người ta lại trông đợi rất nhiều ở các người làm công tác giáo dục, ở đây là
các thày, cô. Giữa những người cùng làm công tác dạy học cũng vậy, tất cả đã
tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng các bậc tôn trưởng, kể cả những người đã khuất.
Sự thiết lập những bàn thờ tiên sư ở các trường trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ
Tho và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ phải được kể là tiêu biểu cho tinh thần giáo dục
của miền Nam. Đối với các phụ huynh học sinh, sự trông đợi các thày nhiều
khi quá mức, ngày nay khó ai có thể nghĩ được điển hình là chuyện “giáo sư mà
cũng ăn phở”. Câu chuyện do một vị giáo sư từ Bắc vô Nam sau Hiệp Định
Genève và được cử xuống Mỹ Tho chấm thi tú tài kể lại. Buổi sáng, các
thày rủ nhau đi ăn phở trước khi nhập trường. Ở tiệm phở, ông nghe người
địa phương thầm thì “giáo sư mà cũng ăn phở”. Nên nhớ là Mỹ Tho là một tỉnh
nhỏ và hồi giữa thập niên 1950, bằng tú tài là to lắm rồi trong khi các vị giáo
sư này lại là giám khảo chấm thi tú tài lận!
Tạm thời kết luận
Bài này bắt đầu được viết vào lúc những tin tức về
những tệ hại trong nền giáo dục ở nước Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong
sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc nội. Ngoài những tin tức, những
bài nhận định còn có những hình ảnh của các kỳ thi đi kèm. Tất cả đã xảy ra
hàng ngày và đã chiếm những phần không nhỏ trong thời lượng phát thanh hay phát
hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào những thời kỳ bãi trường hay khởi
đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên tiếp xảy ra từ nhiều năm trước và người
xem, người nghe có thể đoán trước và chờ đợi mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa
thu đến. Nhiều người còn dùng hai chữ phá sản để hình dung tương lai của nền
giáo dục này và nhiều người khác còn tỏ ý nuối tiếc quá khứ mà họ cho là rất đẹp
của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975. Ở đây, như đã nói trong phần mở
đầu, người viết chỉ vắn tắt ghi nhận một số những dữ kiện căn bản liên hệ tới nền
giáo dục ở Miền Nam thời truớc năm 1975. Một công trình nghiên cứu qui mô hơn
và kỹ càng hơn còn cần phải được thực hiện trước khi người ta có thể khẳng định
những nhận xét này. Tuy nhiên có một điều người ta phải để ý và thận trọng khi
nói tới cách mạng và đặc biệt khi làm cách mạng. Người ta có thể xóa bỏ một chế
độ chính trị bằng cách mạng, từ đó đoạn tuyệt với quá khứ nhưng người ta không
thể theo đà đó mà làm cách mạng trong những phạm vi sinh hoạt khác trong đó có
giáo dục một cách máy móc, không thận trọng. Nhận định này có thể bị coi là bảo
thủ, nhưng đó là một sự thật và là một sự thật bắt đầu bằng kinh nghiệm.
Có điều vì bằng kinh nghiệm nên khi biết được là sai lầm thì đã quá muộn.
Những gì thuộc về quá khứ, kể cả quá khứ bị coi là phong kiến, lạc hậu không phải
là luôn luôn tệ hại, là cổ hủ và những gì được coi là canh tân, đổi mới không
phải luôn luôn là tốt đẹp. Tất cả cần phải có thời gian để “gạn đục, khơi
trong”. Duy có một điều không bao giờ thay đổi là khi
giáo dục không còn được coi là một giá trị và khi các thày cô không còn được
coi trọng thì xã hội sẽ không còn là xã hội của loài người nữa.
Trở về với thực tế trước mắt, với vụ 21 cô giáo ở Thị
Xã Hồng Lĩnh, tỉnh Quảng Trị, nhiều người tự hỏi nếu các cô không được chính Bộ
Giáo Dục và Đào Tạo, cơ quan trực tiếp phải lo cho đời sống và điều kiện hành
nghề của các cô bênh vực, thì nghiệp đoàn giáo chức của các cô ở đâu? Tự
hỏi nhưng ai cũng biết là ở Việt Nam hiện tại làm gì có nghiệp đoàn vì các luật
về lập hội, lập nghiệp đoàn, biểu tình vẫn chưa được Quốc Hội đem ra thảo luận.
Tưởng cũng nên nhớ là ngay từ thời Vua Bảo Đại, qua Chính Phủ Trần Trọng Kim,
các đạo Dụ về tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập nghiệp đoàn đã được ban
hành ngay từ Tháng Bảy năm 1945. Tất cả đã xảy ra trong một tuần lễ
đầu tháng Bảy khiến cho báo chí đương thời đã mệnh danh tuần lễ này là Tuần
Lễ Của Các Tự Do. Nhưng chỉ chưa tới ba tuần lễ sau ngày tuyên bố nền
độc lập và thành lập Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Hồ Chí Minh
đã ký sắc lệnh ngày 22 tháng 9 năm 1945, bãi bỏ các nghiệp đoàn trên toàn cõi
Việt Nam. Đồng thời Bộ Trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp đã ký nghị định giải
tán Hội Khai Trí Tiến Đức và cho Hội Văn Hóa Cứu Quốc tư cách pháp nhân. Trong
khi đó, ở các nước tiền tiến, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, các nghiệp đoàn giáo chức rất
mạnh và được phía chính quyền kính nể. Tương lai của các giáo chức Việt
Nam, nói riêng, và nền giáo dục Việt Nam, nói chung, quả thật không có gì sáng
sủa.
Phạm
Cao Dương
Quận
Cam Hoa Kỳ Mùa Lễ Tạ Ơn 2016