(ngày 21.02.2017)
Chiến hạm Mỹ sắp áp sát đảo nhân tạo của Trung cộng?
Hải quân Mỹ đang lên kế hoạch tiến hành chiến dịch tự
do hàng hải mới quanh các đảo nhân tạo phi pháp của Trung cộng ở biển Đông.
Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson. Ảnh: Hải quân Mỹ
Một phần nội
dung chiến dịch có thể bao gồm việc đi vào khu vực 12 hải lý quanh các đảo nhân
tạo Trung cộng xây trái phép ở biển Đông.
Hoạt động tuần
tra nói trên có thể do nhóm tác chiến Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson ở TP San Diego – Mỹ thực hiện. Nhóm tàu này vừa đi
vào biển Đông cuối tuần rồi.
Kế hoạch mới nói
trên đang chờ Tổng thống Mỹ Donald Trump phê duyệt. Nếu được thông qua và thực
hiện, đây sẽ là chiến dịch tự do hàng hải đầu tiên của Mỹ ở biển Đông kể từ khi
ông Trump nhậm chức hôm 20-1.
Phát ngôn viên Bộ
ngoại giao Trung cộng Geng Shuang gần đây cho biết Bắc Kinh tôn trọng tự do
hàng hải theo luật quốc tế nhưng phản đối mạnh mẽ bất kỳ quốc gia nào làm tổn hại
đến chủ quyền và lợi ích an ninh của nước này trên danh nghĩa tự do hàng hải và
hàng không.
“Chúng tôi kêu gọi phía Mỹ không thực hiện bất
kỳ hành động thách thức chủ quyền và an ninh Trung cộng cũng như tôn trọng những
nỗ lực của các nước trong khu vực về việc bảo vệ hòa bình và ổn định ở biển
Đông” – ông Geng nhấn mạnh.
“Bất kỳ tính
toán sai lầm của bên nào cũng có thể leo thang căng thẳng vượt ngoài tầm kiểm
soát. Trung cộng sẽ không thể nhượng bộ cho dù Mỹ làm bất kỳ điều gì ở biển
Đông. Hai bên cần có cái đầu lạnh và không nên có những động thái không cần thiết
khiêu khích đối phương” – ông Zhiqun Zhu, người đứng đầu Viện Trung cộng tại
Trường ĐH Bucknell (Mỹ), nói với tờ Navy Times.
ASEAN muốn Hoa Kỳ sớm có chính sách rõ ràng về Biển
Đông
Các Ngoại trưởng ASEAN tại cuộc họp ở Boracay, Phi
Luật Tân ngày 21/02/2017. Malacanang Photo/Handout via Reuters
ASEAN
hy vọng chính quyền của tân tổng thống Mỹ Donald Trump nhanh chóng thảo ra «
một chính sách cụ thể hơn và rõ ràng hơn » về khu vực, đặc biệt chính sách với Trung
cộng, trong bối cảnh Bắc Kinh « quân sự hóa » nhiều đảo nhân tạo tại Trường Sa,
khiến các quốc gia Đông Nam Á rất lo ngại. Trên đây là tuyên bố của lãnh đạo
ngoại giao Phi Luật Tân hôm nay, 21/02/2017, sau phiên họp kín với các đồng
nhiệm ASEAN.
Reuters
cho hay, phát biểu trước báo giới, tại Boraca, sau phiên họp đầu tiên với các
ngoại trưởng ASEAN ngày hôm qua, Ngoại trưởng Perfecto Yasay tuyên bố : « chúng tôi hoàn toàn hiểu được là chính sách
(quốc tế) của Hoa Kỳ đang được chính phủ Donald Trump xây dựng », « hiện tại
chúng tôi chưa nắm chính xác về chính sách đối ngoại của chính quyền Mỹ trong
quan hệ với Trung cộng… và chúng tôi hy vọng sẽ được biết cụ thể hơn và rõ ràng
hơn trong những tháng tới ».
Ngoại
trưởng Perfecto Yasay cũng cho biết bộ trưởng các nước thành viên ASEAN đã thể
hiện « sự quan ngại rất lớn » về « các hoạt động quân sự hóa » của Trung cộng
tại nhiều đảo ở Biển Đông, và việc làm sao để Trung cộng chấp nhận « phi quân
sự hóa » và giải thể các công trình quân sự hiện có tại các đảo tranh chấp là
một thách thức lớn đối với toàn khối, đặc biệt là các nước có yêu sách chủ
quyền như Việt Nam, Malaysia và Phi Luật Tân.
Hãng
thông tấn Philippine News Agency dẫn lời thứ trưởng Ngoại Giao Phi Luật Tân
Enrique Manalo trong cuộc họp báo hôm qua tại Boraca, theo đó ASEAN « rất quyết
tâm » hoàn tất sớm Bộ Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông, và các hoạt động chuẩn
bị sắp tới sẽ « rất khẩn trương ». Về mặt chính thức, ASEAN và Trung cộng đặt
mục tiêu hoàn tất khuôn khổ chung cho Bộ Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông (gọi
tắc là COC) vào giữa năm nay 2017, nhằm bảo đảm hòa bình và ổn định lâu dài tại
Biển Đông.
Một
số bộ trưởng ASEAN lo ngại các căng thẳng hiện nay tại Biển Đông có thể làm «
xói mòn lòng tin », ảnh hưởng đến tiến trình đàm phán COC. Ngay trước hội nghị
hai ngày đầu tuần này của ASEAN, thứ Sáu tuần trước, 17/02, Trung cộng vừa kết
thúc một đợt tập trận với tàu sân bay tại Biển Đông. Ngày 18/02, Hải Quân Hoa
Kỳ tuyên bố sẽ đưa một nhóm tàu chiến đấu cùng hàng không mẫu hạm USS Carl
Vinson tới tuần tra tại Biển Đông, để bảo vệ quyền tự do hàng hải.
Hội
nghị ngoại trưởng ASEAN sẽ tiếp tục hôm nay. Đây là cuộc họp đầu tiên cấp bộ
trưởng do Phi Luật Tân tổ chức với tư cách quốc gia Chủ tịch ASEAN năm 2017.
ASEAN-Trung cộng nỗ lực với Quy tắc Biển Đông
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Phi Luật Tân, Charles
Jose cho biết ASEAN và Trung cộng đã có cam kết tới giữa năm nay phải đạt được
khung sườn COC.
Phi Luật Tân loan báo Trung
cộng và Hiệp hội các nước Đông Nam Á đang nỗ lực hết mình để hoàn thành khung
sườn của Bộ Quy tắc Ứng xử Biển Đông (COC) trước thời hạn đã đề ra.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại
giao Phi Luật Tân, Charles Jose, ngày 19/2 cho báo giới biết ASEAN và Trung cộng
đã có cam kết tới giữa năm nay phải đạt được khung sườn COC.
Vẫn theo lời ông Jose, giới
chức đôi bên đang nỗ lực hết mình để hoàn tất trước thời hạn này.
Trước đó, Phi Luật Tân, nước
chủ tịch ASEAN năm nay, cho hay ASEAN nhắm đạt được khung sườn COC trong năm, một
thỏa thuận mang tính ràng buộc hầu đảm bảo hòa bình-ổn định Biển Đông.
Khung sườn COC là bước
quan trọng tiến tới việc chung quyết một Bộ quy tắc COC thực thụ. Các cuộc
thương lượng về COC đã kéo dài hơn chục năm nay.
Phát biểu của phát ngôn
nhân Bộ Ngoại giao Phi Luật Tân được đưa ra trong lúc Ngoại trưởng các nước
ASEAN chuẩn bị họp tại Boracay vao ngày 21/2. Trong số các đề tài thảo luận dịp
này có phần chắc sẽ đề cập đến tân chính quyền Mỹ dưới sự lãnh đạo của Tổng thống
Donald Trump, cùng các mối quan tâm khác trong khu vực.
Tham vọng toàn cầu của Trung cộng và tấm bản đồ đảo ngược
Nhật báo Pháp giới thiệu với độc giả quan điểm quân
sự mới của Trung cộng, thông qua một tấm bản đồ của Viện Hàm Lâm Khoa Học Trung
cộng, cho thấy một cách nhìn hoàn toàn mới và tham vọng toàn cầu của Bắc Kinh
(Bài « Trung cộng, cái rốn của thế giới »).
Trong bản đồ này, không phải Thái Bình Dương nằm giữa
Hoa Kỳ và Trung cộng, mà là Bắc Cực. Tác giả của tấm bản đồ, ông Hao Xiaoguang
(Hác Hiểu Quang), ca ngợi trên truyền hình đây là « một cuộc cách mạng
trong nhận thức », « bẻ gẫy hoàn toàn quan điểm về thế giới mà
phương Tây áp đặt từ hàng trăm năm ». Bản đồ đã được Cơ quan Quản lý Bắc
và Nam Cực của Trung cộng sử dụng chính thức trong các cuộc thám hiểm, và điều
mà ông Hao Xiaoguang rất tự hào là Quân Đội Trung cộng cũng đã sử dụng bản đồ
này.
Theo truyền thông Trung cộng, điều này giúp cho việc
cải thiện hệ thống định vị vệ tinh Beidou (Bắc Đẩu) của Trung cộng. Người ta có
thể thấy « con đường từ Trung cộng đến New York qua Bắc Cực gần hơn là
qua Thái Bình Dương, bằng máy bay, và trong trường hợp xung đột, thì bằng tên lửa…
».
Hàng không mẫu hạm Mỹ trở lại tuần tra Biển Đông
Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson.
Một hàng không mẫu
hạm cùng đội tàu chiến của hải quân Mỹ đã trở lại bắt đầu tuần tra ở Biển Đông
giữa bối cảnh có nhiều lo ngại rằng vùng biển tranh chấp này sẽ trở thành một
điểm nóng dưới thời kỳ nắm quyền của Tổng thống Donald Trump.
Reuters dẫn lời
hải quân Mỹ nói rằng lực lượng của Mỹ, gồm hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson,
bắt đầu các hoạt động thường lệ ở Biển Đông hôm 18/2.
Chỉ huy của lực
lượng này, thiếu tướng James Kilby, nói rằng nhiều tuần lễ diễn tập ở Thái Bình
Dương trước đó đã cải thiện khả năng hoạt động hiệu quả cũng như sự sẵn sàng của
đội tàu chiến này.
Ông Kilby được dẫn
lời nói rằng “chúng tôi nóng lòng muốn chứng
tỏ những khả năng đó trong khi gây dựng mối quan hệ vững mạnh sẵn có với các đồng
minh, đối tác và những người bạn ở khu vực Ấn Độ Dương và châu Á – Thái Bình
Dương”.
Thông tin về hoạt
động tuần tra của hàng không mẫu hạm Mỹ xuất hiện một ngày sau khi Trung cộng
thông báo kết thúc các cuộc tập trận ở Biển Đông.
Trước đó, Bộ Ngoại giao Trung cộng cảnh báo
Washington không nên thách thức chủ quyền của Trung cộng tại vùng biển tranh chấp
này.
Trong khi công du châu Á đầu tháng này, Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ hôm 4/2 tuyên bố rằng Hoa Kỳ chưa cần phải có những bước đi quân sự ở
biển Đông. “Ngay lúc này, chúng tôi
không thấy sự cần thiết phải thực thi các bước tiến quân sự mạnh mẽ”, ông James
Mattis được Reuters dẫn lời nói trong một cuộc họp báo ở Tokyo, nhấn mạnh tới
giải pháp ngoại giao.
Nhật tăng cường hợp tác quốc phòng với Đông Nam Á
Trong kỳ họp Quốc hội hiện tại, Nhật dự định thông
qua một dự luật cho phép Tokyo tặng thiết bị quốc phòng cho các đối tác nước
ngoài.
Nhật muốn cung cấp các xe vận tải quân sự đã qua sử
dụng cho các nước Đông Nam Á bao gồm Việt Nam, nhằm tăng cường hợp tác quốc
phòng với các nước ASEAN giữa các quan ngại về sự trỗi dậy của Trung cộng.
Nhật mong muốn thảo luận với các nước sẽ trao tặng
như Việt Nam, Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai, và Nam Dương sớm nhất là mùa hè
này, đồng thời cũng đang tính tới việc gửi các binh sĩ sang các nước để huấn
luyện cách vận hành.
Hai chiếc máy bay TC-90 đầu tiên trong gói năm chiếc
mà Nhật cho Phi Luật Tân thuê để tuần tra biển sẽ được chuyển giao vào cuối
tháng ba năm nay giữa lúc Tokyo đề nghị tăng cường hợp tác quốc phòng với
Manila thông qua các hoạt động trao đổi và chuyển giao thiết bị quốc phòng.
Trong khi đó, Nhật cũng đang soạn thảo khung sườn
pháp lý cho phép chuyển giao thiết bị và công nghệ quốc phòng cho Thái Lan. Đôi
bên hy vọng khung sườn chung quyết sẽ hoàn tất để ký kết vào giữa năm nay.
Nhật có kho dự trữ lớn các thiết bị quốc phòng đã
qua sử dụng nhưng được bảo trì tốt như phản lực cơ chiến đấu hay các tàu khu trục.
Hợp tác quốc phòng giữa Nhật với ASEAN đang dần chuyển
hóa từ trao đổi quân sự thành gầy dựng lòng tin và tăng cường hiểu biết lẫn
nhau. Tính chất sự hợp tác này ngày càng trở nên chiến lược hơn, bao gồm hợp
tác xây dựng khả năng quân sự và chuyển giao kỹ thuật quân sự.
Năm ngoái, Nhật đã cung cấp tàu cho Phi Luật Tân và
Việt Nam giúp củng cố an ninh hàng hải cho hai nước Đông Nam Á đang có tranh chấp
với Trung cộng ở Biển Đông.
Biển Đông: Việt Nam bắt đầu có chiến lược mới chống Trung cộng
Tàu
ngầm lớp Kilo của NgaDR
Theo các chuyên gia quân sự, đối sách chủ yếu chống Trung
cộng trên Biển Đông của Việt Nam gần đây là chiến lược gọi là sea denial - chống
tiếp cận từ ngoài biển -nghĩa là dùng các phương tiện thông thường ngăn không
cho lực lượng đối phương thâm nhập.
Tuy nhiên, trong bài phân tích đăng trên trang mạng
tờ báo Mỹ The National Interest ngày 16/02/2017, chuyên gia về Hải Quân Đông
Nam Á Koh Swee Lean Collin thuộc trường Nghiên Cứu Quốc Tế S. Rajaratnam tại
Singapore cho rằng Hải Quân Việt Nam đã thay đổi đối sách để chuyển sang sử dụng
chiến lược counter-intervention – chống can thiệp – mà chủ lực sẽ là 6 tàu ngầm
lớp Kilo có trang bị tên lửa hành trình Klub-S đã được Nga bàn giao đầy đủ.
Với tầm bắn 300 km, loại tên lửa này - gọi là SLCM
(sea launched land-attack cruise missile), phóng đi từ ngoài biển nhắm vào các
mục tiêu trên bờ - có thể đánh vào các căn cứ và sân bay Trung cộng, chẳng hạn
như căn cứ hải quân gần Tam Á (Sanya) ở phía nam đảo Hải Nam, nơi tập trung chủ
lực các lực lượng Trung cộng phụ trách Biển Đông.
Bài báo mở đầu bằng nhận xét
ca ngợi hai chiến thắng Bạch Đằng của người xưa trước quân Trung cộng xâm lược.
Năm 1287, tướng Ô Mã Nhi của nhà Nguyên dẫn đầu một
đạo quân hùng hậu cùng vô số chiến thuyền đến xâm lược nước Đại Việt (tức Việt
Nam ngày nay). Với đội quân tiên phong thiện chiến người Mông Cổ, có vẻ như đây
sẽ là một trận thắng dễ dàng của quân Nguyên. Nhưng thực tế lại ngược lại với
trận hải chiến một năm sau đó. Ở cửa sông Bạch Đằng gần Vịnh Hạ Long, tướng Trần
Hưng Đạo đã tái hiện lại trận đánh năm xưa của Ngô Quyền chống quân xâm lược
Nam Hán năm 938.
Theo cách đánh của Ngô Quyền, tướng Trần Hưng Đạo đã
cho cắm các cây cọc đầu bọc sắt ở dưới lòng ba phụ lưu con sông, và chờ lúc thủy
triều lên cao thì dụ chiến thuyền Mông Cổ tiến vào vùng nước nông. Khi thủy triều
rút xuống, chiến thuyền Mông Cổ đã bị cọc sắt đâm vào làm mắc cạn.
Những chiến
thuyền nhỏ của quân Đại Việt khi đó bắt đầu tiến ra vây quanh đội chiến thuyền
của Mông Cổ và ồ ạt phóng hỏa đốt cháy các chiến thuyền của quân địch bị bất động.
Trận Bạch Đằng là một thất bại nặng nề của hạm đội xâm lược của nhà Nguyên.
Theo tác giả bài nghiên cứu, nếu chiến thắng năm 938
góp phần kết thúc thời kỳ Trung Hoa đô hộ Đại Việt lần thứ nhất, thì chiến thắng
hải quân năm 1288 không làm thay đổi quan hệ song phương, với việc nhà Trần chấp
nhận bá quyền của nhà Nguyên cho đến khi đế chế này bị lật đổ.
Theo The National Interest, trận Bạch Đằng là một ví
dụ hiếm hoi về cách Việt Nam vận dụng các chiến thuật chủ yếu trên bộ để dùng
vào một trận hải chiến. Cũng đáng ghi nhận là trận Bạch Đằng diễn ra ở vùng nước
gần bờ của Việt Nam, thay vì là vùng biển khơi trên Biển Đông, nơi mà chiến
thuyền Mông Cổ chắc chắn có thể chiến đấu hiệu quả hơn.
Chiến lược chống tiếp cận
trên biển
Đối với tờ báo Mỹ, cũng dễ hiểu là vì sao mà vào năm
1988, Việt Nam đã bị Trung cộng đánh bại trong một trận hải chiến trên biển
khơi ở khu vực quần đảo Trường Sa. Vào lúc đó, Hải Quân Trung cộng đã cho thấy
là họ hơn hẳn Hải Quân Việt Nam, chưa quen với các trận đánh ngoài biển khơi, đồng
thời cũng bị lấn át về quân số và vũ khí.
Trận chiến năm đó là một nỗ lực nhằm ngăn không cho Trung
cộng xâm phạm quần đảo Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Tuy nhiên vì
chiến đấu quá xa bờ, lại không được tiếp viện kịp thời và đầy đủ, kết quả của
trận đánh đã được an bài một cách nhanh chóng và dứt khoát.
Việt Nam đã bị Trung cộng cướp lấy một số đảo đá sau
trận hải chiến đó, và đối với giới lãnh đạo chính trị và quân sự Việt Nam, việc
giành lại các thực thể đó là điều không cần phải bàn cãi.
Theo tờ báo Mỹ, Việt Nam đã nhận thức được những hạn
chế về mặt hải quân của mình và thừa biết là không thể nào tái lập chiến công
hiển hách của người xưa. Do đó, căn cứ vào tình trạng bất đối xứng về lực lượng
ngày càng sâu đậm với Trung cộng, Việt Nam đã phải thực thi chiến lược chống tiếp
cận trên biển – sea denial.
Về cơ bản, chiến lược chống tiếp cận trên biển nhằm
việc ngăn chận hay phá vỡ đường tiến của đối phương vào các vùng biển có liên
quan, đồng thời không để cho đối thủ được tự do hành động trong cùng một khu vực.
Chuyên gia Đài Loan Ngô Thượng Tô (Wu Shang-su) chẳng
hạn, đã cho rằng vì ít có khả năng chiến thắng trước đối thủ Trung cộng (mạnh
hơn gấp bội nếu đối đầu trực diện), nên Việt Nam không có lựa chọn nào khác
ngoài việc áp dụng chiến lược chống tiếp cận trên biển.
Đồng thời yếu tố tài chính cũng buộc Việt Nam phải
hành động như vậy vì Việt Nam tiếp tục ưu tiên phát triển kinh tế-xã hội theo
chủ trương Đổi Mới thực hiện từ đầu những năm 1990 (cũng là thời điểm quân đội
Việt Nam tinh giản biên chế). (...)
Việt Nam cải tiến chiến lược
Tuy nhiên, chuyên gia trên tờ The National Interest
nhận định, sẽ hết sức sai lầm khi cho rằng Việt Nam dễ cam chịu. Việt Nam từ
lâu đã nhận thức được những giới hạn trong chiến lược chống tiếp cận trên biển
kiểu truyền thống, và do đó đã tìm cách cải tiến chiến lược để ngăn chặn nguy
cơ Trung cộng dùng quân sự xâm lược trên Biển Đông.
Theo National Interest, vào lúc Hải Quân Việt Nam vừa
nhận được đầy đủ 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo của Nga và sắp sửa vận hành được một
đội tàu ngầm hoàn chỉnh trong năm 2017, mọi người vẫn nghĩ rằng chiến lược hải
quân đặt trọng tâm vào việc chống tiếp cận trên biển của Việt Nam vẫn đang được
áp dụng.
Xây dựng lực lượng phản công
Đối với nhà nghiên cứu Koh Swee Lean Collin, quả
đúng là tàu ngầm, đặc biệt là tàu ngầm quy ước, thường được gắn với một chiến
lược chống tiếp cận, tuy nhiên, trong trường hợp của Việt Nam, cần phải nhìn xa
hơn bình thường. Cả 6 chiếc tàu không chỉ được trang bị bằng các loại vũ khí chống
tiếp cận truyền thống như ngư lôi và thủy lôi chẳng hạn, mà còn có tên lửa hành
trình hải đối địa Klub-S – tên tắt tiếng Anh là SLCM (sea launched land-attack
cruise missile), có thể bắn trúng mục tiêu cách xa đến ba trăm cây số...
Nhà quan sát kỳ cựu về quân đội Việt Nam Carlyle
Thayer đã cho rằng loại tên lửa này của Việt Nam sẽ được dùng để tấn công các cảng
và các sân bay Trung cộng, chẳng hạn như căn cứ hải quân Tam Á trên đảo Hải
Nam, hơn là nhắm vào các thành phố trải dọc theo bờ biển phía nam lục địaTrung
cộng.
Vai trò lực lượng phản công này vẫn phù hợp với chiến
lược phòng thủ răn đe của Hà Nội, nhưng việc có thêm một khả năng tấn công như
vậy rõ ràng là một bước chuyển ra khỏi chiến lược chống tiếp cận trên biển.
Vào lúc này, Việt Nam chưa có năng lực tấn công Trung cộng sâu trong đất liền. Tuy nhiên, sự thiếu hụt đó không cản trở khả năng phản công của Việt Nam chống lại các mục tiêu ven biển.
Căn cứ Hải Quân Tam Á của Trung cộng chẳng hạn, có
thể bị tấn công một cách dễ dàng bằng các loại tên lửa bay trên mặt nước không
cần đến hệ thống định vị vệ tinh tinh vi mà Việt Nam chưa có. Và Hà Nội đã chú
ý đến việc tăng cường khả năng trừng phạt Bắc Kinh và bắt Trung cộng trả giá nặng
nề nếu xâm lăng Việt Nam. Vào tháng 9 năm 2014, một quan chức quân sự ở Hà Nội
nhận xét rằng tầu ngầm Kilo không phải là vũ khí duy nhất của Việt Nam, mà chỉ
là một phần trong số vũ khí mà Việt Nam đang phát triển để bảo vệ tốt hơn chủ
quyền của mình.
Vì vậy, để đạt mục tiêu đó, Việt Nam đã có thêm những
động thái nhằm định hình một chiến lược chống can thiệp mạnh mẽ hơn, phản ánh sự
rời xa cách chống tiếp cận trên biển truyền thống. Ví dụ, thủy quân lục chiến
Việt Nam đã tập trận « tái chiếm đảo », tại khu vực quần đảo
Trường Sa, điều không thể tưởng tượng được từ năm 1988.
Trong tháng 5 năm 2016, có tin là Việt Nam đã đàm
phán với Nga để mua thêm một cặp chiến hạm Gepard 3.9 được trang bị tên lửa dẫn
đường. Điều đặc biệt của thương vụ này các các chiến hạm mới đó sẽ được trang bị
tên lửa hành trình Klub. Việt Nam có lẽ lấy cảm hứng từ sự kiện các hộ tống hạm
cùng cỡ với loại Gepard 3.9 trong Tiểu Hạm Đội Caspi của Nga, đã phối hợp tốt với
tàu ngầm Rostov-on-Don thuộc lớp Kilo để phát động thành công những cuộc tấn
công bằng tên lửa hải đối địa.
Tóm lại, theo nhà nghiên cứu Koh Swee Lean Collin, để
đối phó với tiềm lực quân sự to lớn của Trung cộng, Việt Nam đang từng bước
chuyển hướng chiến lược, từ chống tiếp cận trên biển qua một chiến lược mới sẽ
làm tăng chi phí mà Trung cộng phải trả cho hành động xâm lăng của họ. Việc
hoàn chỉnh hạm đội tàu ngầm của Việt Nam vào năm 2017 này chỉ là bước quan trọng
đầu tiên theo hướng đó.
Tin
tức, bình luận từ VOA, RFA, RFI, AP, BBC