„Đất nước này không thể mãi lệ thuộc vào những thành phần “đảng sĩ”
giá áo túi cơm, vô tri giác này. Trái lại, tương lai là ở trong tay người dân,
những ngưòi áo vải, những kẻ sĩ sống chết vì tiền đồ của đất nước.“
Kẻ sĩ và cuộc giải trừ cộng sản
Bảo Giang
Có một điều rất lạ là, đến
nay vẫn còn nhiều người chưa bước ra khỏi cái vỏ ốc nệ cổ. Khi thấy bước chân của
những người trẻ vững chải vươn lên vì tương lai của đất nước, họ như thờ ơ,
không hay, không biết, rồi nhắm mắt bảo là: Đất nước thời tang thương,
dân tình khốn khổ như nô lệ, nhưng tìm không ra kẻ sĩ? Đã thế, khi bước ra khỏi
nhà lại không biết làm cách nào để có thể tránh mặt được bọn “Ngụy Diên” là những
đảng viên CS tráo trở và bất lương. Chúng nhiều như bụi trên đường!
Tôi cho rằng, cái quan niệm này là không chỉnh. Nó
hoàn toàn sai ở nửa đầu và chỉ đúng ở nửa phần sau. Đành rằng, ngày nay trong
bước đường tranh đấu cho quê hương, chưa hề có những “đại” trí thức, ông quan
to, chức lớn, quyền hành lắm, bổng lộc nhiều, dấn thân, bỏ mũ từ quan, về với
dân, tranh đấu cho đất nước như những Phan Đình Phùng, Nguyễn Thái Học, Thủ
khoa Huân... và gần đây là Cụ Ngô đình Diệm đã rũ áo, bỏ chức quan trưởng bộ lại
khi mới 31 tuổi vì lý do: “Ở lại chức vụ này, quả nhiên là một trò hề đau khổ...”
Nhưng không vì thế mà thiếu kẻ sĩ vì dân vì nước. Trái lại, kẻ sĩ luôn hiện diện trong bước đi của dân tộc. Có
chăng là chúng ta nệ cổ, hẹp hòi, đôi khi là ích kỷ để không nhìn ra những hy
sinh của họ trước vận nước điêu linh mà thôi.
Dĩ nhiên, chẳng ai nỡ trách ai trong cái nhìn thụ động
bi quan ấy. Nhưng đã đến lúc mọi người phải thay đổi cách nhìn tiêu cực này. Bởi
vì, cái quan niệm hẹp hòi, nệ cổ ấy, xem ra là không còn hợp thời nữa. Nó không
còn hợp thời vì kẻ sĩ không cần phải là ông quan to, quyền lớn bỏ quan về ở ẩn.
Trái lại, chính cái sĩ khí của một con người dám đứng
thẳng và nói lên lời công lý trước mặt bạo quyền! Chính người dám hy sinh cả sự
nghiệp, tương lai đang có của mình vì lý tưởng của đồng bào. Đó mới chính là
tinh thần của kẻ sĩ. Họ sống trong sự sống của dân. Và chết vì sự sống của đồng
bào mình. Nói cách khác, họ là người dám sống và chết cho lý tưởng Tự
Do, Độc Lập của dân tộc mình.
Dĩ nhiên, mẫu người lý tưởng này xem ra không thể có
ở trong lòng chế độ cộng sản. Nghĩa là không thể có ông cán to, quyền lớn dám bỏ
địa vị, danh vọng để quay trở về với đồng bào, đề đấu tranh cho một Việt Nam Độc
Lập, Tự Do, Công Lý và Nhân Quyền (ít nhất cho đến hôm nay). Cũng chẳng có một
Ngô Quyền trong hàng quân này đứng dậy chém những Kiều Công Tiễn, phất cờ diệt
Hán để đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Lão Sơn, Bản Giốc... đem lại thái
bình ấm no cho dân cho nước. Trái lại, ở đó chỉ có những lớp ruồi trâu, chỉ có
bầy đỉa bám vào đảng, vào chế độ, rúc rỉa máu xương người dân để tìm sống riêng
mà thôi.
Xem ra, họ sống và chết như thế cũng không có gì lạ.
Bởi vì, cộng sản sau sáu mươi năm đã xây đựng được một đế chế đảng quyền độc trị,
ngồi trên đất nước, trên luật pháp, trên công quyền. Nên tất cả những thành phần
nhân sự do CS đào tạo, từ trí thức (có lẽ không nên gọi họ là trí thức, vì trí
thức thì phải hiểu nghĩa vì dân trí, không phục vụ nô lệ) nên gọi là có học thì
đúng hơn, đến chuyên viên các ngành, các cấp rồi thợ thuyền, công nhân... chỉ
biết phục dịch một cách nô lệ cho đảng quyền để được hưởng bổng lộc, quyền lợi.
Ngoài ra, không hề biết đến công quyền, luân lý, đạo nghĩa và phúc lợi của dân
nước là gì.
Như thế, ở đó chỉ là một tập hợp bao cấp đồng sàng,
giống như một công cụ là cái ống cống vô tri vô giác để chuyển nước thải. Nó chạy
theo hàng ngang, hàng dọc. Phủ kín từ trên xuống dưới. Từ trung ương xuống tời
tận thôn xóm, làng xã, phường khóm. Chui luồn vào trong tất cả mọi cơ sở công cộng,
ngoài xã hội cho đến học đường, không nơi nào không có. Đặc biệt, nó đan kín
trong hàng ngũ quân đội, công an. Ở đó, CS dùng những mỹ từ “quân đội nhân
dân”, “công an nhân dân” để che khuất một phương cách đào luyện, biến những người
trong biên chế này thành một tập thể tuyệt đối trung thành với dối trá, với vô
đạo của đảng. Sẵn sàng bán nước, tàn sát chính đồng bào của mình theo lệnh của
mẫu quốc Trung cộng như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẩn đến
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh... và nay là
Trọng, Sang, Hùng, Dũng hay Phúc Quang, Ngân… đã làm. Rồi tiếp đến là những kẻ
tranh công đang xếp theo thứ tự chờ thời. Hỏi xem, với những quan cán như thế,
tìm đâu ra những Ngô Quyền, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Ngô Đình Diệm?
Trước mắt, rõ ràng là một thất vọng ghê gớm. Tuy
nhiên, vận nước sẽ không mãi đi theo cái nhìn bi quan ấy. Đất nước này không thể mãi lệ thuộc vào những thành phần “đảng
sĩ” giá áo túi cơm, vô tri giác này. Trái lại, tương lai là ở trong tay người dân,
những ngưòi áo vải, những kẻ sĩ sống chết vì tiền đồ của đất nước. Theo
đó, những rào cản, những ống cống kia sớm muộn cũng bị phá vỡ, đào thải. Có còn
lại, chỉ là một khối kiêu hùng Việt Nam, vĩnh viễn không bao giờ chấp nhận làm
nô lệ cho CS, cho ngoại bang. Dù cái ngoại bang ấy là Tầu hay là Tây!
Thật vậy, nếu giới được gọi là sĩ phu, trí thức hôm
nay chỉ là những chuyên viên nô dịch cho hệ thống đảng cộng và hoàn toàn im lặng,
ăn no, ngủ yên trước những khổ đau của người dân, trước những cảnh bị Tàu răn
đe, xâm lấn cõi bờ. Hay giả làm ngơ trước cảnh ngoại bang giành giật thuê bao,
mua đất đai, bờ biển trong nội địa Viêt Nam do chính nhà nước mà họ đang phục vụ
vẽ đường, tạo ra, thì giới trẻ xem ra lại là những
tinh hoa, là sức sống, đem lại nguồn an ủi, niềm tin và sức sống vào tương lai
cho dân tộc Việt.
Đến nay, tuy chưa có ngày hội lớn của những
người trẻ đi vì quê hương. Nhưng bóng dáng của họ đã luôn có mặt trong những sự
kiện cần đến một tiếng nói trừ diệt gian dối. Nơi họ đã luôn
có những tiếng “kèn loa, trống dục” như Nguyễn
Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Đỗ Thị Minh Hạnh,
Việt Khang, Lê Quốc Quân, Nguyễn Phương Uyên, Phạm Thanh Nghiên, Trần Thị Nga,
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, hay 14 kiệt sĩ
ở Vinh, và còn nhiều nữa. Hào khí của những ngưòi trẻ này đã tạo thành một nguồn sống
rộn ràng và đáng tự hào cho đất nước.
Hơn thế, từ điểm phát xuất ban đầu
ấy, những thế hệ trẻ Việt Nam ngày một trưởng thành trong ý thức nhân bản. Họ
đi và sống vì sức sống Độc Lập của tổ quốc. Đi và tranh đấu cho sự Tự Do, Nhân
Quyền, Công Lý cho đồng bào của mình. Họ đi và truyền đi những tiếng nói của sự
thật. Từ đó cho thấy, chính lòng hăng say, quả quyết vì quê hương, vì đồng bào
của họ là hình ảnh những kẻ sĩ của thời đại, là những tiếng nói tạo nên nghiệp
cả cho quê hương mai sau.
Nói thế, không có nghĩa là chúng ta phủ nhận tinh thần
kẻ sĩ trong các cuộc đấu tranh vì dân tộc. Trái lại, tất cả vẫn như một tấm
gương còn ngàn đời soi sáng cho tuổi trẻ noi theo. Noi theo trong tinh thần phục
vụ dân tộc. Nhờ họ mà những lớp ngưòi trẻ hôm nay vững chãi hơn, bền gan hơn. Nếu
như không muốn nói là can trường hơn, dũng mãnh hơn trong sự nghiệp cứu quê
hương thoát nạn cộng sản, thoát khỏi bàn tay xâm lược từ bắc phương.
Thật vậy, họ được sinh ra vào thời hậu chiến, trong
hoàn cảnh đất nước còn đầy dẫy những tang thương, những đổ vỡ. Những đổ vỡ, tưởng
rằng mau qua. Kết quả, đã không thể hàn gắn sau chiến tranh. Trái lại, vết
thương ấy mỗi lúc một làm cho hình ảnh Việt Nam trở nên tồi tệ hơn. Và nhân bản
đạo lý Việt Nam dưới sự thống trị của CS mỗi ngày một thêm suy đồi, lụn bại. Từ
đó, cuộc sinh hoạt của xã hội đã tạo ra hai hướng đi đối nghịch nhau giữa nhà cầm
quyền và dân chúng. Một bên đi theo đường gian trá của đảng để hôi của, chiếm
công. Một bên thì lặng lẽ chán nản, buông xuôi, chẳng còn thiết tha gì đến
tương lai của đất nước.
Chuyện nhà nước cộng sản tạo ra hai hướng đi nghịch
chiều nhau trong xã hội Việt Nam, và làm cho nền đạo lý, nhân bản của xã hội Việt
Nam bị phá sản không có gì lạ, khó hiểu. Trái lại, từ sáu, bảy mươi năm trước,
cộng sản đã chủ trương giáo hóa người dân, đặc biệt là các đoàn đảng viên của họ
bằng sự dối trá, bá đạo qua những cái loa rỉ xét ở đầu đường, xó chợ và tin đồn.
Người dân hầu như không có bất cứ một nguồn thông tin nào khác để mà xo sánh
xem những lời tuyên truyền kia là gian trá hay đứng đắn. Suốt một quãng đường
dài của đời người, người dân, đoàn đảng viên CS chỉ được nghe tuyên truyền về đạo
đức Hồ Chí Minh, mà không hề hay biết cái đạo đức ấy là đạo đức gì. Nó tử tế
hay là vô đạo bất nhân? Chỉ biết nghe, nghe mãi về cái bánh vẽ của HCM nên nhiều
người lầm tưởng đó là những sự thật. Tệ hơn, có nhiều kẻ còn điên cuồng đứng ra
bảo vệ những gian trá bất lương ấy bằng cách này hay cách khác.
Từ đó cho thấy, nếu như không có những thông tin điện
toán hiện đại và nhanh chóng từ hải ngoại, từ các bloggers ( không phải là của
nhà nước) từ những tấm lòng trong sáng của những người trẻ vì đất nước truyền
đi, hẳn nhiên là người dân vẫn chẳng biết gì về những hệ thống bịp bợm này của
CS. Tệ hơn, còn cho điều chúng tuyên truyền là đúng. May mắn thay, với trào lưu thông tin mở rộng của cá nhân, bloggers, không
có một gian trá, tồi bại, tàn ác nào của Hồ Chí Minh của Trường Chinh, Lê Duẩn...
của tập đoàn cộng sản đã làm trên đất nước Việt Nam trong 80 năm qua mà người
dân không biết đến. Không có một hiệp ước, hiệp thương, công hàm bán nước,
hay khế ước nhượng biển, nhượng đất cho ngoại bang do tập thể này thực hiện, mà
người dân không hay. Từ đó, dẫu chưa nói ra, người dân đã lên án những hành động
tồi bại này. Chẳng một ai còn muốn chúng tồn tại trên phần đất này. Nếu họ chưa
đồng loạt đứng dậy và Chôn Nó Đi là vì thời cơ chưa tới mà thôi.
Theo đó, nếu đem so với người đi trước, xem ra bước
đi của những bạn trẻ hôm nay khó khăn hơn xưa gấp bội phần. Trước hết, những
người trí thức, những ông quan to, chức quyền lớn xưa kia luôn được đào tạo
trong một nền giáo dục nhân bản, trọng lễ nghĩa, đạo lý, để biết tôn trọng nhân
quần xã hội khi ra phục vụ. Họ không hề bị giáo dục trong gian dối để phục vụ
cho gian dối và bất lương. Nên khi họ bỏ mũ áo từ quan, vì gặp thời vua quan bạc
nhược, khiếp đảm vì sức mạnh của ngoại bang. Họ vẫn ung dung tự tại trong cuộc
sống. Nếp nhà, danh dự của họ không thể bị cường quyền bôi nhọ, lấn áp. Nói trắng
ra là, có từ quan như cụ Ngô đình Diệm, Phan đình Phùng thì thực dân Pháp và
triều đình của An Nam cũng không thể bắt, kết án, bỏ tù hay thủ tiêu họ.
Nhưng nay, dưói chế độ “ưu việt” Việt cộng của Hồ
Chí Minh, xem ra chuyện luân lý ấy đã hoàn toàn bị đảo ngược, không có chỗ đứng.
Quý cụ Ngô Đình Diệm, Phan Đình Phùng… nếu là cán lớn của chế độ, dám công khai
cởi bỏ mũ áo, chống lại chúng giữa chốn công đường thì có khi chẳng về đến nhà.
Hoặc giả, có về đến nhà thì cũng không ngủ qua đêm, (Bí thư Nguyễn Văn Bách có
thể là một thí dụ). Ấy là chưa kể đến việc người thân của họ cũng đều bị vạ
lây! Chỉ riêng về điểm này, xem ra bước đi của tuổi trẻ Việt Nam ngày nay đã là
rất khó khăn, đầy những gian nan, trắc trở.
Trước hết, khi nói lên lời Công Lý, đòi nhà nước tôn
trọng Nhân Quyền của người dân là nhà tù và đòn thù của cộng sản sẵn sàng ập xuống
trên bản thân họ bất cứ lúc nào. Kế đến là phải đối diện với cuộc sống bị rình
rập từng giờ từng phút. Bước ra đường là từng bầy đàn gọi là công an, nghiệp vụ,
kể cả nhóm gọi là dân phòng theo đuôi. Thành phần này có thể tự ý cắn người để
tranh công trưóc khi chủ nuôi ra lệnh! Khi về nhà thì lặng lẽ, tay mở khóa cửa
mà đôi mắt không ngừng dòm chừng bên phải, bên trái, bụi rậm bên hè, xem bầy
quái thú có lẩn khuất rình nấp ở đâu đây không? Rồi khi lên giường, đèn vừa tắt
là những lo sợ ập đến. Giấc ngủ đôi khi vì mệt mỏi hơn là một khoảng thời gian
để nghỉ ngơi. Đã thế, họ còn phải đối diện với cuộc sống cô đơn. Cô đơn khi ở trong
nhà tù. Cô đơn tại nơi làm việc, trong học đường, hay ngoài xã hội.
Ấy là chưa kể đến những “ trò chơi” áp lực đốn mạt,
ném bùn từ các cơ sở truyền thông của nhà nước CS. Chúng buộc cơ quan, công sở,
học đường, nơi họ đang sinh hoạt, làm việc với, phát cho họ tấm giấy... thôi việc,
đuổi họ như trường hợp của Nguyễn Đắc Kiên, Nguyễn Phương Uyên. Hoặc giả, những
người như Nguyễn Văn Đài, Lê thị Công Nhân, Lê Công Định… sau khi bị nhà nước bức
hại bằng những bản án “chống phá và âm mưu lật đổ chính quyền” là cả đời (nếu
chúng còn tồn tại) thì khó có cơ hội kiếm được công ăn việc làm hợp với khả
năng, tri thức của họ!
Với trăm nghìn thiệt thòi cho bản thân như thế, mà họ
vẫn đi. Vẫn hiên ngang mãnh liệt tranh dấu cho Tự Do, cho Công Lý cho Độc Lập của
Tổ Quốc. Vẫn quyết tâm tranh đấu, ngõ hầu đem lại cho đồng bào một cuộc sống tốt
đẹp hơn. Vẫn tiếp tục lên án cái bạo quyền của cộng sản. Vẫn công khai đưa ra
những nhận định, đưa ra những đáp số như chỉ dẫn trước về sự kết liễu cho số phận
của tập đoàn CS phải đến là:
- "Họ xuất phát từ một cái văn hoá thấp
kém, dùng một phương pháp đấu tranh hoàn toàn phi nhân đạo, phi nhân bản, là
chuyên chính, bạo lực, vô sản để đàn áp, để trấn áp con người với một mục tiêu
hoàn toàn phi đạo lý, vô chính trị và có thể nói là phi pháp nữa." (Lê
thị Công Nhân).
- Phần Nguyễn Phương Uyên, như một quan toà lẫm liệt,
dõng dạc, dứt khoát khi công bố bản án kết liễu cho cái chế độ và tập đoàn CS
là: “Đảng cộng sản đi chết đi. Tàu khựa cút khỏi biển Đông”!
- Trong khi đó, Việt Khang như kể trên, nhẹ nhàng lịch
thiệp hỏi thẳng những tên cộng sản bán nước hại dân là: “Xin hỏi, anh
là ai, anh ở đâu sao lại ngăn bước tôi chống giặc Tàu ngoại xâm… Dân tộc anh ở
đâu, sao đang tâm làm tay sai cho Tàu...”
Tôi không cho đây là những lời họ mạt sát, phỉ báng
tổ chức đảng và nhà nước cộng sản. Nhưng là những nhận định, những kết luận vững
chắc để cho mọi người nhìn rõ bộ mặt thật của tập thể gian dối cộng sản. Không
phải biết để xa lánh, yên lặng. Nhưng là cùng nhau, chung tay đào thải CS ra khỏi
xã hội Việt Nam. Rồi cùng nhau khơi dậy niềm tin và sức sống cho mọi người bước
vào tương lai bằng một hướng đi nhân bản cho dân tộc mình. Bởi vì, khi xã hội đã được giải phóng, thoát khỏi mọi gian dối của cộng
sản, nó cũng đồng thời giải phóng xã hội ra khỏi nhiều tai họa do sự gian dối
gây ra. Đặc biệt là cứu xã hội ra khỏi cơn khủng hoảng của tội ác do cộng sản
đã đem vào đất nước này. Chúng đã đem vào đây hai loại tội ác lớn: Đó là
hình tượng cá nhân của HCM và những tội phạm đại gian ác của y:
1. Tội phản bội tổ quốc:
Hồ Chí Minh ngay từ năm 1919 đã biết đánh tráo công
sức của những trí thức Việt Nam như các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Tạ
Thu Thâu và Nguyễn An Ninh làm của riêng mình. Khi về Việt Nam (nếu HCM thực là
Nguyễn Tất Thành) thì giải phóng chưa thấy đâu, HCM đã tổ chức cuộc tổng đấu tố
trên toàn đất bắc theo khuôn mẫu và xếp đặt của hai viên cố vấn Trung cộng để
giết hại hơn 270000 ngưòi Việt Nam. Và làm ly tán hàng triệu gia đình khác với
mục đích tạo ra sợ hãi triền miên trong dân chúng để nắm quyền lực. Ấy là chưa
kể việc gây ra cuộc chiến sau 1954 tại miền Nam, đưa đến cái chết của hơn 3 triệu
con dân Việt Nam và đẩy cả nước vào đường khố đáy điêu linh, làm nô lệ cho cộng
sản, phục dịch, nô lệ, xin làm chư hầu cho Trung cộng hôm nay.
2. Tàn phá gia cang:
Với cha mẹ, một đời Hồ Chí Minh không đốt cho họ được
một nén nhang gọi là đền ơn nghĩa sinh thành? Chữ đạo hiếu của con người ở đâu?
Chuyện vợ con. HCM không có vợ chính thức trên giấy tờ, nhưng thực tế lại sống
vợ chồng với một thiếu nữ chưa đủ mười tám tuổi là Nông Thị Xuân. Rồi sau khi
Nông Thị Xuân sinh con thì chính HCM là ngưòi lệnh cho Trần Quốc Hoàn xiết cổ
cô Xuân và quăng xác ra đường, gỉa làm một tai nạn giao thông. Vậy là đạo nghĩa
ư? Loài thú cũng không cắn xé bạn tình mình như thế! Một kẻ vô gia đình, vô tổ
quốc từ bản chất và tàn độc với đồng bào như thế mà đáng được coi là gương mẫu
đạo đức để buộc ngưòi khác phải noi theo ư?
Kết quả, từ nền văn hóa vô đạo và lối tuyên truyền
thô bạo bất lương ấy, CS đã đẫy nhiều tầng lớp tuổi trẻ Việt Nam vào đường
cùng, không lối thoát, không tương lai. Trước mắt họ chỉ là một cuộc sát phạt,
tranh đoạt, cậy thế lực, bao che cho nhau vì tấm thẻ đoàn, thẻ đảng để có chỗ
ngồi tốt, bát cơm tốt, cuộc sống phủ phê trong quyền lực. Từ một tên cán nhỏ nhất
ở xóm thôn, phường khóm đã có đủ uy quyền, muốn nắng được nắng, muốn mưa có
mưa. Tự tiện ra luật, hành luật và mặc tình cho xã hội rên xiết trong thống khổ.
Kết quả, phản ảnh từ nền văn hóa và đạo đức vô gia đình, vôtổ quốc của Hồ Chí
Minh sau khi được áp dụng vào xã hội là lớp trẻ khi lớn lên, tương lai thì
không có, lối thoát cũng không, cuộc sống là một sự khủng hoảng từ cơm ăn cho đến
việc làm. Đã thế, luân lý đạo đức nền tảng của xã hội bị phá sản, nên càng ngày
càng có nhiều kẻ phạm vào tội đại ác, giết cha giết mẹ, giết vợ giết con, giết
bằng hữu thân nhân theo gương HCM.
Khi thấy họa, Cộng sản chữa cháy, đem ra xử với những
bản án tử hình thì phỏng có ích lợi gì? Có làm cho các tội phạm giảm bớt hay
không? Hãy mở thống kê ra xem thế nào? Hình như càng ngày càng có nhiều tội ác
nghiêm trọng xuất phát từ tuổi thanh thiếu niên. Trẻ có thể tặng cho nhau con
dao mã tấu của HCM chỉ vì một cái nhìn, một câu nói thách, hay vì năm, ba chục
ngàn bạc, (vài đồng đô la). Tại sao thế? Tại vì họ không được giáo hóa theo
nhân bản thiện. Họ được giáo hóa theo gương HCM. Từ đó, con người không còn lý
tưởng sống. Họ chỉ tìm cuộc sống qua cung cách hưởng thụ, vội vã. Kết quả, tội
ác là kẻ dẫn đường. Tội cho họ mà cũng là thảm họa cho đất nước!
Theo đó, những lời lẽ của
những người trẻ hôm nay, điển hình là của Công Nhân, Phương Uyên, Việt Khang...
phải được trân trọng như một cuộc vận động lớn để kết liễu, để giải trừ gian
trá ra khỏi xã hội. Việc vận động này, trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến
môi trường sống. Giúp cho con người nhìn ra được lẽ sống khi sống, và sống với
nhân phẩm cách của mình. Một khi tuổi trẻ nhìn ra được tương lai của đất nước,
của dân tộc thì họ cũng nhìn ra được tương lai của chính mình. Khi ở đó, con
người được đối xử một cách công bằng, bình đẳng. Cuộc sống không còn nằm trong
hay lệ thuộc vào tấm thẻ đoàn, thẻ đảng của CS thì việc tự phát triển nhân cách
và đời sống cũng sẽ đổi thay, thăng hoa. Từ đó, việc phạm những tội đại ác theo
gương Hồ Chí Minh, tự nhiên sẽ giảm và điđến triệt tiêu. Triệt tiêu từ giáo hóa
hơn là hình phạt (dẫu hình phạt cũng rất cần để răn đe) nhờ đó đời sống luân lý
và đạo đức của xã hội được bảo đảm. Rồi an toàn của xã hội giúp mọi người có
thêm nhiều phương tiện để tổ chức và mưu cầu phúc lợi cho cuộc sống của riêng
mình.
Đó chính là chủ đích lớn nhất, vững nhất và cao cả
nhất mà tôi tin rằng những người trẻ hôm nay đang mang ở trong người khi họ
đương đầu với cuộc chiến truyền thông dối trá của cộng sản. Đây không chỉ là cuộc
đối đầu, thách thức giữa những đôi tay trắng với hàng triệu triệu súng đạn bạo
lực của cộng sản. Nhưng là cuộc đối đầu giữa những tâm hồn trong sáng vì đất nước
vì đồng bào với những con thuồng luồng bỉ tiện cộng sản - giữa sự thật, công lý
với gian dối. Nói cách khác, đây còn là một chiến lược lâu dài nhằm tẩy xóa mọi
hình ảnh giả tạo, gian trá của Hồ Chí Minh ra khỏi xã hội. Rõ ràng, đây không
phải là công việc của một vài người và làm trong vài bữa nửa tháng, nhưng là của
mọi người cùng nỗ lực trong vài ba thế hệ mới khả dĩ hoàn tất.
Như thế, nếu bước đi của họ hôm nay chỉ là cuộc khởi
đầu. Lẽ nào người Việt Nam muốn có một đất nước độc lập, ở đó, chúng ta được tự
do, bình đẳng để xây dựng đời sống và phúc lợi riêng. Ở đó, công lý, nhân quyền
được bảo đảm và tôn trọng, lại thờ ơ không tiếp tay, không dấn bước theo những
bước khởi đầu của tuổi trẻ hôm nay hay sao? Tôi tin rằng, đã đến lúc mọi người phải thay đổi tư duy và hành động của
mình để bắt kịp nhịp đi của những người trẻ vì đất nước hơn là ngồi chờ sung rụng.
Cách riêng, với các bạn trẻ, tôi thành thật muốn nói
rằng: Các bạn là những bó đuốc trên con đường tranh đấu cho Công Lý, cho Nhân
Quyền của dân tộc. Đường các bạn đi, vị trí các bạn đứng ở trên cả những tổ chức
chính trị, đảng phái. Đặc biệt, các bạn đứng hẳn trên một đỉnh cao nhân bản,
hoàn toàn khác biệt và đối nghịch với tập thể bá đạo cộng sản. Vì đó là một tập
thể mà chính Mark, cha đẻ của thuyết cộng sản đã nhìn thấy và định nghĩa về những
“đồng chí” của ông ta như sau “chỉ có loài thú mới ngoảnh mặt quay đi trước những
thống khổ của đồng loại”.
Quả thật, không có một định nghĩa nào về tổ chức và
về các đảng viên CSVN hay hơn định nghĩa của Mark. Bởi vì các đảng viên Cộng sản
không những chỉ đáp ứng trọn vẹn định nghĩa của Mark, mà còn đi xa hơn thế.
Chúng không chỉ ngoảnh mặt trước những nỗi thống khổ của đồng loại, nhưng còn
quay lại cắn xé, nuốt tươi đồng loại, trong đó có cả cha mẹ, anh em, thân nhân
và bằng hữu của chúng. Quả khó tin đó là những con người!
Hỡi các bạn trẻ Việt Nam! Đừng bao giờ
trông chờ cộng sản đổi thay, vì bản chất của cộng sản là gian trá và tạo ra
gian trá. Cộng sản sẽ mãi mãi là gian trá. Sự thay đổi của CS nếu
có, thì nó chỉ đổi từ gian trá này sang một gian trá khác mà thôi. Cộng sản
cũng sẽ không bao giờ có thể nhân danh gian dối để trừ gian dối. Nghĩa là, người
ta không thể lấy danh nghĩa của quỷ để mà trừ quỷ. Trái lại, chỉ có sự thật mới
có thể diệt trừ được gian trá.
Nay các bạn đã đi vì Công Lý, đã hành xử
như những chính nhân trọng Nhân Quyền. Cả đất nước này đang trông chờ vào sự trổi
vượt của các bạn. Tôi tin rằng, nền Độc Lập thịnh trị của
dất nước. Sự hạnh phúc trong Tự Do, Công Lý của đồng bào đang trông chờ vào những
bước đi can trường và quảng đại của tuổi trẻ hôm nay.
Bảo Giang