Tác
giả Việt Nguyên (trái) chờ Giáo Sư Trần Ngọc Ninh ký sách tại Viện Việt Học.
(Hình: Quốc Dũng/Người Việt)
Tháng Ba trở về Portland, Oregon, thành phố tôi đã đến
đúng 39 năm về trước sau chuyến vượt biên 42 ngày hẹn hò với tử thần trên vịnh
Thái Lan. Chuyến vượt biên với những cơn sóng dữ, như những cơn sóng xóa quá khứ
và những kỷ niệm của người tị nạn, khác với những người bản xứ may mắn lúc nào
cũng có những hình ảnh, những con đường, những ngôi nhà hiện diện mỗi ngày
quanh họ. Portland với ngọn núi Mt. Hood, đỉnh núi phủ đầy tuyết như Phú Sĩ, và
cây cầu qua dòng sông Willamette, một đêm về sáng ngồi trên chuyến xe buýt về từ
Seattle sau kỳ thi lấy bằng hành nghề Flex Tháng Mười Hai, 1978, hồn lâng lâng
tưởng như đang sống trong một cơn mộng. Ngọn núi và dòng sông không đổi sau 39
năm và qua nhiều lần tôi trở về thăm như về thăm quê nhà. Thành phố với những
người tử tế của nhà thờ Montavilla Methodist Church đã bảo trợ đại gia đình anh
em chúng tôi qua lời yêu cầu giúp đỡ của anh tôi. “Đi trẻ về già…” như câu thơ
của Hạ Tri Chương. Đến Portland năm 28 tuổi, lòng hướng đến tương lai mà hồn vẫn
còn để lại quê nhà. Ba chín năm! Thời gian qua nhanh như vó câu, thời gian ở
quê người lâu hơn thời gian ở quê nhà nơi đã sống, trưởng thành với nhiều ước
mơ và kỷ niệm. Về lại Portland, nhìn lại con trẻ lớn tuổi hơn bố mẹ ngày đến Mỹ,
lòng đầy bâng khuâng.
Về lại chốn cũ, đi một vòng nhà thờ, xuống dưới từng
hầm nơi đại gia đình anh em chúng tôi đã tá túc trong những tuần đầu đến đất mới,
khung cảnh đã đưa tôi về những ngày tháng xưa, về tình người. Những người bạn
39 năm trước không hề quen biết nhưng đã dang tay đón nhận theo “tiếng gọi của
Thượng Đế” như Mike Love người bảo trợ gia đình chúng tôi nói với dân nhà thờ
ngày Chủ Nhật hôm ấy. Nhờ về lại chốn cũ, các con tôi cũng cảm nhận được cuộc
hành trình đã qua trên 39 năm và những khó khăn đã vượt qua của những người tị
nạn trong khung cảnh của nước Mỹ sau chiến tranh Việt Nam. Mike nhớ lại anh đã
nhìn tôi như người lạc hậu, phải khó khăn lắm tôi mới xin được $75 để nạp đơn
thi ECFMG vì họ không thể tin được bác sĩ Việt Nam mới đến, không nói được tiếng
Mỹ, gần ngày hết hạn nộp đơn, có thể đậu sau ba tháng sửa soạn. Bác Sĩ Ross và
Mike đã “đau bụng” khi thấy tôi xé các sách y khoa dày cộm, đóng lại từng
chương bỏ túi, học trong khi đi chợ, không có tiền học lớp luyện thi phải tự học,
thân phận qua sau ba năm so với những người qua năm 1975 nên phải cố sức học.
Ba tháng đậu ECFMG, sáu tháng sau lái xe lên Seattle đậu Flex. Mike và các người
bảo trợ nhà thờ hãnh diện về thành tích của người tị nạn trẻ tuổi được nhà thờ
bảo trợ. Cái nhìn của những người Mỹ trắng nhà thờ đã thay đổi, tự hào về người
Việt tị nạn và bớt kỳ thị. Bên cạnh những người tốt cũng có những người nặng
tinh thần kỳ thị như ngày đi xin việc qua bộ xã hội, một bà bác sĩ da trắng
chuyên khoa da đã dạy tôi bài học sau một giờ ngồi chờ đợi, không phỏng vấn,
không xem lý lịch học vấn, bà đã phán: “Anh
đừng mong thi đậu. Bài thi khó anh không thể đậu, nếu may mắn đậu, thành bác
sĩ, thì anh cũng nhớ một đều là bệnh nhân Mỹ trắng không đến bác sĩ da vàng và
bệnh nhân da vàng cũng không đến bác sĩ da màu vì họ chỉ tin vào bác sĩ Mỹ trắng!”
Hai mươi tám tuổi, mới bước chân đến Mỹ một tháng, về nhà sau kỳ phỏng vấn nhìn
tương lai trước mắt không sáng sủa tôi chỉ mong bỏ Portland để đi về một tiểu
bang miền Nam nơi có nhiều dân thiểu số.
Portland thay đổi so với 39 năm trước, từ thành phố
bảo thủ đa số dân da trắng nay trở thành thành phố cấp tiến trong khi các tiểu
bang miền Nam lại theo khuynh hướng cựu hữu. Xã hội Hoa Kỳ cũng thay đổi. Hơn
30 năm trước, sau khi tốt nghiệp chương trình y khoa cấp cứu, tôi về Houston
hành nghề tại bệnh viện Spring Branch. Các y tá thường hỏi tôi: “Làm sao ông đậu bằng tương đương bác sĩ y
khoa Hoa Kỳ sau ba tháng?” Tôi đùa, trả lời: “Tại vì tôi biết gian lận khi làm bài thi bằng cách nhìn qua thí sinh da
trắng ngồi cạnh, thi trắc nghiệm dễ nếu anh ta khoanh câu trả lời ‘a’ tôi cũng
khoanh ‘a,’ nếu khoanh ‘b’ tôi cũng khoanh ‘b’ nên anh ta đậu tôi cũng đậu.”
Các y tá chỉ biết cười.
Hai mươi bốn năm sau về làm nhà thương mới, các y tá
cũng hỏi tôi câu hỏi tương tự. Tôi cũng trả lời bằng câu nói đùa ấy. Ba giờ
sáng ở phòng cấp cứu, Kevin đứng bật dậy nói: “Ông rất may mắn! Bây giờ đi thi nếu muốn gian lận tôi phải ngồi cạnh
sinh viên Á Châu.” Xã hội Mỹ không còn xem thường người Á Châu như vào thập
niên 1970-1980 nhờ những đóng góp thành công của giới trẻ trong cộng đồng người
Việt tị nạn.
Tuyết Xuân Portland tiễn tôi về Houston với Tháng Tư
chờ đợi, Tháng Tư với ngày 30 lịch sử, Tháng Tư với nhiều hoài niệm đổ về, với
những người bạn ở xa đến, Giáo Sư Nguyễn Mạnh Hùng từ DC, nhà văn Nguyễn Tường
Thiết từ Seattle. Bốn mươi hai năm sau những kỷ niệm cũ vẫn hiện về. Sóng biển
không xóa hết những kỷ niệm và quá khứ của người tị nạn trái lại đã đẩy những kỷ
niệm đến. Giọng Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, người thầy cũ trường y khoa Sài Gòn, đã
gọi tôi về Little Saigon trong Tháng Năm, đề dự ngày thầy ra mắt sách. Người thầy
95 tuổi vẫn theo đuổi sự nghiệp văn chương và giáo dục như ngày ông còn ở Việt
Nam vừa dạy đại học y khoa vừa dạy đại học Vạn Hạnh và giữ chức tổng trưởng văn
hóa giáo dục.
Giọng nói của thầy gợi tôi về những ngày tháng học y
khoa với thầy đứng cao vời vợi trên bục giảng ở đại giảng đường. Giáo sư với bộ
mặt nghiêm khắc khiến học trò vừa kính sợ vừa khâm phục về kiến thức sâu rộng.
Tôi đã nhiều lần chạy xe gắn máy theo sau chiếc xe Peugeot trắng 404 của thầy đến
tòa soạn báo Bách Khoa trên đường Phan Đình Phùng. Tôi đã “mê” thầy cũng như “dại
dột” mê đọc báo, đọc sách văn chương ngoài giờ học và tập tành cầm bút.
Sài Gòn trong thời chiến tranh là một Sài Gòn đẹp, một
Sài Gòn thơ mộng với những con đường cây rợp bóng mát để thương để nhớ, một Sài
Gòn trong thời chiến tranh với nhiều ngẫu hứng văn chương, báo chí tràn ngập
trong đó có hai tập san nổi bật Bách Khoa và Sáng Tạo của giới trí thức. Một
Sáng Tạo với Mai Thảo đã mất và một Doãn Quốc Sỹ tôi đã gặp trong ngày ra mắt
sách ở Viện Việt Học với Khu Rừng Lau, Gìn Vàng Giữ Ngọc, Dòng Sông Định Mệnh,
Người Việt Đáng Yêu… Cùng với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên những tiếng thơ đã
làm Sáng Tạo nổi bật về văn chương, khác với Bách Khoa nổi bật với khuynh hướng
chính trị, với chủ thuyết, chủ nghĩa quốc gia dân tộc, những bài nghiên cứu giá
trị của nhà văn Bình Nguyên Lộc, Bác Sĩ Trần Văn Tích, Giáo Sư Nguyễn Thiệu
Lâu, Linh Mục Trần Thái Đỉnh, Giáo Sư Nguyễn Hiến Lê, các nhà văn Võ Phiến,
Vương Hồng Sển, Lê Tất Điều, Nhã Ca, v.v… Bách Khoa với chủ trương như cụ Á Nam
Trần Tuấn Khải viết:
“Nào
văn chương, chính trị nào xã hội nhân quyền
Từ
vật chất tinh thần cùng đổi mới.”
Bốn mươi hai năm nhìn lại, lịch sử nước Việt Nam
cũng như lịch sử các quốc gia trên thế giới, với chu kỳ như trời đất bốn mùa
khi lên khi xuống đến tàn rụi, những thời kỳ văn minh như sử gia Arnold Toynbee
nhận định trong “Nghiên cứu lịch sử” (A study of history).
Trong khi ngoài Bắc, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt
Nam theo đuổi chiến tranh với chủ nghĩa giải phóng theo chủ thuyết Marx đấu
tranh giai cấp bằng vũ lực bịt miệng những tiếng nói của giới trí thức và văn
nghệ sĩ, giới trí thức miền Nam vẫn giữ được sĩ khí trong một cuộc chiến không
tiếng súng. Trong cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa thiện và ác, bên thiện đã
thua vì phản bội của đồng minh, của Henry Kissinger qua Hiệp Định Paris. Nhưng
cũng như truyện khoa học giả tưởng của Isaac Asimov, nước Việt Nam đã ở vào thời
kỳ có hai cơ sở. Một ngày đất nước sẽ rơi vào thời kỳ đen tối, nhiệm vụ của giới
trí thức và khoa học gia là cố gắng cứu vãn để thời gian hồi phục sẽ đến sớm
hơn.
Sau 30 Tháng Tư, 1975, trí thức và khoa học gia không được sử dụng. Nhà cầm
quyền Cộng Sản Việt Nam theo chính sách của Liên Xô và Trung cộng lập các trại
cải tạo, hậu quả là sự suy sụp kéo dài man rợ. Hai cơ sở, hai nền tảng
(foundation) vẫn tồn tại như trong thời kỳ chiến tranh, một ở trong nước với chánh
sách bịt miệng trí thức, một ở ngoài nước với giới trí thức cố giữ vững tinh thần
và tư cách của kẻ sĩ của một nước Việt Nam văn hiến.
Ngôn ngữ và văn chương là vũ khí hữu hiệu trong cuộc
chiến không tiếng súng. Trong nước văn chương phản kháng không ngừng từ 1954, ở
hải ngoại giới trí thức gặp khó khăn không đến từ chánh quyền mà vì khung cảnh
và môi trường sống. Giới trẻ lớn lên, như thuyết Darwin, thay đổi theo môi trường
sống, ngôn ngữ Việt không được sử dụng hàng ngày, tiếng Việt quên lãng trong giới
trẻ. Vietnamese American, người Mỹ gốc Việt, thoạt đầu là Việt, 42 năm sau người
Việt sống ở Hoa Kỳ có nhiều đặc tính Mỹ nhiều hơn Việt.
Sống ở Mỹ từ năm 1978, sau khi định cư yên ổn với
nghề y, Giáo Sư Trần Ngọc Ninh cho thấy ông là người xứng đáng với chức vụ tổng
trưởng văn hóa giáo dục thời VNCH. Ông vẫn tiếp tục theo đuổi sự nghiệp giáo dục
cho các thế hệ trẻ qua Viện Việt Học và viết các sách có giá trị. Trình độ của
ông là trình độ “bậc thầy các thế hệ” với kiến thức rộng, “kiến thức là sức mạnh”
(Francis Bacon: knowledge is power).
Ba cuốn sách “Ngữ
Pháp Việt Nam,” “Ngữ Vựng Việt Nam,” và “Dạy Đọc Dạy Viết Tiếng Việt” là một công trình nghiên cứu lâu dài của
ông và là một công trình của một người hiếu học tự học. Đến thăm thầy tôi năm
nay 95 tuổi, tôi thấy lúc nào ông cũng cặm cụi viết. Ông có lần tâm sự với tôi
ông là học trò của Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, nhưng cũng như các học trò trường Bưởi
và Chu Văn An, ông tự học nhiều hơn, chính sự hiếu học và tự học đã tạo ra người
quảng bác chứ không phải là một “con vẹt trả bài.”
“Dạy
đọc dạy viết theo phương pháp Âm Vi Học” đã cho thấy ông đã
nghiên cứu lối dạy phát âm trên thế giới. Ông đã cho tôi liên tưởng đến Sejong
(Thế Tông), Hoàng Đế Hàn Quốc, người đã sáng tạo hệ thống ngôn ngữ Hangul, hệ
thống chữ Alphabet cho Hàn Ngữ để người bình dân có thể phát âm, 38 chữ giúp
cho dân Triều Tiên phát âm qua cơ quan (từ miệng lưỡi mới cho đến thanh quản).
Công trình của Vua Sejong mất ba năm, từ 1443 đến 1446, giúp ngôn ngữ của người
Triều Tiên độc lập với Hán Ngữ. Từ ngôn ngữ độc lập, dân Triều Tiên độc lập với
Trung Quốc khác với chữ Nôm của Việt Nam chỉ thay đổi một phần nhưng vẫn không
phát âm Alphabet. Hàn Ngữ từ đời Vua Sejong đã được Tây Phương khen ngợi, học
Hàn Ngữ rất dễ so với các ngôn ngữ khác ở vùng Đông Nam Á.
Sách ngữ vựng của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh dựa theo lý
thuyết của ông Noam Chomsky, một nhà nghiên cứu ngữ pháp đồng thời là triết gia
đại học MIT, chính trị gia khuynh tả chống chiến tranh Việt Nam, một trong những
nhân vật tự nhận là “lương tâm” của thời đại, mới đây ông viết bài luận chống Tổng
Thống Donald Trump. Thuyết ngữ pháp của ông Noam Chomsky có ảnh hưởng lớn trên
thế giới sau khi nghiên cứu hơn 50 ngôn ngữ trên thế giới. Căn bản thuyết ngôn
ngữ của ông bắt nguồn từ sinh học (biolinguistics), cấu trúc ngôn ngữ xác định
trong tư tưởng con người và được truyền qua di thể (gene). Tất cả ngôn ngữ có
chung một cốt lõi được ông gọi là ngữ pháp hoàn vũ. Ngữ vựng quan trọng hơn ngữ
pháp.
Sách của Giáo Sư Ninh đưa nhiều lý luận mới về tiếng
Việt và thay đổi nhiều từ như động từ là “điều thật từ.” Cách pháp âm và thay
chữ cùng đổi như I thay vì Y. Những chữ khó chấp nhận ngay như đề nghị của Nguyễn
Ngu Y từ trước năm 1975.
Giáo Sư Đàm Trung Pháp, giáo sư về ngôn ngữ, đã ca tụng
bộ sách của Giáo Sư Ninh sau khi đọc bản thảo của hai cuốn sách và phát biểu về
ngôn ngữ theo một nhà chuyên môn với triết về ngôn ngữ. Tôi lắng nghe và mỉm cười
nhớ lại những câu ông viết trong báo Ngày Nay ở Houston mấy năm trước khi ông
còn dạy ở Dallas. Ông kể chuyện khi mới đến Mỹ du học sau khi tốt nghiệp trung
học. Anh văn giỏi, một ngày ở ký túc xá, một sinh viên Mỹ đã hỏi ông Pháp về thời
tiết bên ngoài. Ông Pháp trả lời: “Thời tiết rất nóng, đổ mồ hôi, nóng quá tôi
muốn cởi áo mặc quần đùi.” Anh sinh viên Việt Nam thao thao bất tuyệt bị anh
chàng Mỹ chận lại ngay: “Mày chỉ cần nói trời nóng như lửa. Hot like hell!, là
tụi tao dân Texas hiểu rồi đâu cần nói văn chương!”
Ngôn ngữ là từ được dùng nhiều thì thành ngôn ngữ
hàng ngày. Sách “Language Instinct” của Steven Pinker một nhà ngôn ngữ học và
tâm lý học ở Montreal nổi tiếng không thua ông Chomsky, không được Giáo Sư Pháp
và Giáo Sư Ninh nhắc đến. Đọc sách Steven Pinker rồi, người đọc dễ chấp nhận những
thay đổi như ngữ pháp trong sách của Giáo Sư Ninh, cũng như dễ chịu hơn với những
từ được dùng ở Việt Nam sau 30 Tháng Tư, 1975.
Những danh từ rất khó nghe như:
sự cố kỹ thuật thay vì lý do kỹ thuật, đăng ký thay vì ghi danh, khẩn trương
thay vì khẩn cấp. v.v… Những chữ khó chịu nay được phổ thông như “cực kỳ.” Cấu trúc ngày xưa giống Trung Hoa
nay giống Mỹ như chữ “Ấn tượng,” ngày
trước miền Nam dùng: “Tôi có ấn tượng tốt
về cô” nay nói tắt “Cô ấn tượng tôi.”
Chữ “tử vong” nay vừa dùng thành danh
từ và động từ, dùng mãi rồi chữ “chết” không còn được xài, “cha mẹ tử vong” nghe chướng tai. Trước
1975, người Việt tao nhã, bệnh “tiểu đường”
(Diabetes) thay vì “bệnh đái đường” nay sinh viên y khoa được dạy là “đái tháo đường.”
Ngôn ngữ tự phát của Steven Pinker đã nhận xét trẻ
em “tự nhiên sáng chế ngữ pháp và ngôn ngữ,”
không khác gì ngôn ngữ đường phố của người dân Việt từ xã hội trước và nay.
Cuốn sách của Giáo Sư Ninh hy vọng sẽ gây được nhiều
bàn cãi xây dựng về ngôn ngữ.
Cuối buổi ra mắt sách tại Viện Việt Học, tôi dìu thầy
tôi xuống hai tầng lầu, 95 tuổi tinh thần ông vẫn minh mẫn và tôi đã thấy những
việc làm của thầy có nhiều kết quả. Nhiều học trò đang theo bước chân thầy như
Bác Sĩ Đặng Phú Ân với trường Việt Ngữ ở Montreal, Canada, Bác Sĩ Đỗ Hoàng Ý và
vợ Quý Linh với trường Việt Ngữ và nhà xuất bản Ý Linh ở Houston.
Đọc
thêm:
Giới thiệu sách mới của GS Trần Ngọc Ninh
“Ngữ Vựng
Tiếng Việt”
Giáo Sư Ðàm Trung Pháp
Hai lãnh vực cơ bản trong tiến trình thủ đắc một ngoại
ngữ là ngữ pháp và ngữ vựng. Nhưng
nếu được hỏi lãnh vực nào hữu dụng hơn khi phải dùng một ngôn ngữ chưa thông thạo
để giao dịch với người bản xứ thì có lẽ chẳng ai chọn ngữ pháp làm câu trả lời.
Ðã đành các luật lệ ngữ pháp là cần thiết để viết hay nói thứ tiếng đó cho chỉnh
và làm người bản xứ hiểu ta rõ hơn, nhưng nếu chỉ thuộc lòng các quy luật ngữ
pháp mà lại yếu kém về ngữ vựng thì nỗ lực giao dịch ấy khó lòng thành tựu được.
Thật vậy, câu nói “Vì tiếng Anh không khá, bạn tôi đã ba lần rớt bài thi vào quốc tịch Mỹ
rồi” trong tiếng Anh (đúng ngữ pháp) là “Because his English is poor, my friend has failed the American
citizenship test three times already,” nhưng câu (sai bét ngữ pháp và chính
tả, với mức ngữ vựng tàm tạm – một thứ “broken English”) “He english no gut, my frend he no pass already three time test for
become citizen of american” cũng có thể làm người dân Mỹ bản xứ cố gắng hiểu
được, mặc dù họ thấy nó ngộ nghĩnh lạ thường. Lại cũng có lúc người ta chỉ cần
phát ngôn một hai chữ “đắc địa” cho hoàn cảnh cũng đủ làm cho người bản xứ hiểu
mình.
Nhớ lại trong dịp thăm viếng Tây Ðức năm 1973, vì mải miết mua quà cho
gia đình vào ngày chót chuyến đi nên tôi quên cả giờ giấc, suýt nữa thì lỡ chuyến
bay về Saigon! Vội vàng leo lên một taxi, tôi quen miệng nói tiếng Anh với người
tài xế yêu cầu ông đưa tôi ra phi trường, nhưng ông ta có vẻ không hiểu. Mừng
thay, khi tôi chỉ nói lên hai chữ tiếng Ðức rất phổ thông cho “phi trường” và
“làm ơn” là “Flughafen, bitte!” thì ông ta hiểu liền!
“Nhập tâm” ngữ vựng một ngoại ngữ là một thử thách lớn
đòi hỏi học trò nhiều cố gắng kiên cường. Nhưng đền bù lại, khả năng đọc và viết
sẽ thăng tiến theo tỷ lệ thuận với số lượng từ ngữ mà họ làm chủ được. Quan yếu
như thế mà từ biết bao đời nay ngữ vựng thường được “dạy” bằng một lề lối cũ kỹ
vừa làm học trò chán nản vừa chẳng mấy thành công. Lề lối lỗi thời ấy khuyến
cáo học trò phải cố gắng học thuộc lòng nghĩa (meanings) cũng như chính tả
(spellings) các chữ mới, nhưng không đả động gì tới thể loại (lexical
categories), chức vụ ngữ pháp (syntactical functions), ngữ cảnh (contexts),
cũng như kết hợp từ (collocations) là những đặc thù tối quan trọng của chúng.
Những yếu tố này đáng lý ra thì phải được gây chú ý trong các thí dụ, các lời
giải thích, các định nghĩa cho những chữ mới.
Công trình giáo khoa đồ sộ tựa đề “Ngữ Vựng Tiếng Việt”
của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh vừa được Viện Việt Học xuất bản năm nay (2017) đã
mang đến cho tôi một ngạc nhiên sảng khoái. Triết lý
giảng huấn căn cứ trên phát kiến của khoa ngôn ngữ học đương đại và nội dung
phong phú vui tươi được trình bày một cách tân kỳ của tác phẩm đã lấy được
thiện cảm của tôi ngay từ những trang đầu tiên của nó. Thực vậy, trong ngót nửa
thế kỷ chuyên nghiên cứu và giảng dạy educational linguistics (môn ngữ học dành
cho các chương trình đào tạo giáo chức ngôn ngữ) tại Ðại Học Sài Gòn và một số
đại học tại Texas, tôi chưa thấy một tài liệu giáo khoa giảng dạy ngữ vựng tiếng Việt (hay ngữ vựng
một ngôn ngữ nào khác) được soạn thảo và trình bày một cách khoa học, nhất
quán, vui tươi, và thấm nhuần văn hóa dân tộc như tác phẩm giáo khoa “Ngữ Vựng Tiếng Việt” của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh.
Nhận định đầu tiên của tôi về công trình giáo khoa
này là thấy tác giả rất uyên bác của nó đã dựa vào những
phát kiến của ngữ học và tâm lý học hiện đại hữu ích cho lãnh vực giáo dục ngôn
ngữ. Quan trọng nhất là phát kiến về sự hiện hữu tiên thiên (innate existence)
của cơ quan ngôn ngữ (language organ) và ngữ pháp hoàn vũ (universal grammar)
trong não bộ loài người, do Noam Chomsky đề xướng vào năm 1965. Cái phát
kiến làm sửng sốt học giới một thời của Chomsky đã được Stephen Krashen khai
triển kỹ lưỡng, khoảng hai thập niên sau đó, để thành cốt lõi cho phương hướng
tự nhiên (the natural approach) để giảng dạy ngôn ngữ. Nhấn mạnh sự khác biệt
đáng kể giữa thủ đắc ngôn ngữ (language acquisition) và học tập ngôn ngữ
(language learning) cùng với những đề nghị thực tiễn vui tươi cần thiết cho mục
tiêu “thủ đắc,” công trình của Krashen đã được tán thưởng và áp dụng từ đó đến
nay. Phát kiến ấy của Chomsky cũng được Ken Goodman dùng làm kim chỉ nam cho
phương hướng ngôn-ngữ-vẹn-toàn (the whole-language approach) mang lại thành
công hàn lâm đáng kể cho Goodman, vào cùng thời gian với thành tựu của Krashen.
“Ngữ Vựng Tiếng Việt” là một tin mừng cho các thầy
cô và các em học sinh các lớp Việt ngữ đủ trình độ, trong hạn tuổi từ 5 đến 15.
Công trình giáo khoa giảng dạy ngữ vựng Việt Nam quý vị đang có trong tay vừa
được hoàn tất sau khá nhiều năm khổ công do lòng nhân ái thúc đẩy – labor of
love trong Anh ngữ – của tác giả là một luồng sinh khí mới đầy hứa hẹn cho nỗ lực
giảng dạy tiếng Việt ở hải ngoại, đặc biệt là tại các quốc gia sử dụng Anh ngữ.
Mặc dù tác giả đã khiêm tốn xác định công trình tâm
huyết của ông “chỉ là một cái kho nhặt nhạnh, tồn trữ và sắp xếp, chứ không điển
chế ngôn ngữ hay văn tự” (trang 2), công trình này đã hiến cho giáo giới chúng
ta một kho tài liệu khổng lồ để giúp phần thăng hoa cách giảng dạy ngữ vựng tiếng
Việt cho tuổi trẻ thành một phương pháp nhân bản hấp dẫn với nhiều tiềm năng
thành công rực rỡ.
Triết lý giáo dục ngày nay tại Hoa Kỳ nhắc nhở giáo
giới rằng vai trò lý tưởng cho người đi học là vai trò của những nhà thám hiểm.
Vì vậy các nhà giáo cũng như các tài liệu giảng huấn phải cung cấp những phương
tiện, những cơ hội tối ưu để thúc đẩy các nhà thám hiểm trẻ tuổi tự khám phá
thêm ra những điều mới lạ trong cuộc hành trình học hỏi với nhiều lý thú và
hưng phấn. Kinh nghiệm dạy học của bao thế hệ cũng xác nhận rằng tài liệu giáo
huấn chỉ trở thành tuyệt hảo khi nó tổng hợp được tri thức của các bộ môn khác
nhau nhưng cùng chuyên tâm vào một chủ đề (theme), vì sự hiểu biết phát triển mạnh
nhất là khi nó được tiếp cận các kết nối tri thức (cognitive connections). Vì
những lý do vừa kể, một bài học hữu hiệu mang lại lý thú cho học sinh phải là một
đơn vị có chủ đề (thematic unit) được khai phá từ nhiều khía cạnh như văn học,
toán học, khoa học, xã hội học, chính trị học, nếp sống đa văn hóa trong xã hội
ngày nay, vân vân.
“Những tâm trí vĩ đại gặp nhau chăng,” tôi tự hỏi,
vì những ưu điểm nêu trên hiện hữu đều đặn trong công trình của tác giả “Ngữ Vựng
Tiếng Việt.” Rất nhiều mục từ (mà tác giả gọi là “từ
khóa” hay “key words”) sắp xếp theo thứ tự a/b/c trong sách là những đơn vị có
chủ đề, trong đó các yếu tố văn cảnh, kết hợp từ, từ đồng nghĩa, các câu giải
thích chủ đề qua các lãnh vực tri thức khác nhau, các ca dao tục ngữ, các câu
trích dẫn từ đệ nhất thi phẩm Truyện Kiều và từ các tác phẩm văn chương Việt
khác đã biến các mục từ ấy thành những bài học nho nhỏ với chủ đề hấp dẫn, giảng
giải qua thứ tiếng Việt tự nhiên (natural, authentic Vietnamese). Những
bài học nho nhỏ đó có mục tiêu gia tăng tri thức học trò qua môi giới “thủ đắc”
(acquisition) tự nhiên và lý thú hơn là qua môi giới “học tập” (learning) buồn
nản của lề lối cũ.
Văn cảnh (contexts, mà tác giả gọi là “đồng
văn” trong sách) là những cơ hội thuận tiện cho “ngữ vựng chưa biết” xuất hiện
trong các câu mà học sinh đã hiểu được gần hết ý nghĩa; trong những hoàn cảnh
ngôn ngữ này, các cháu có thể suy đoán ra ý nghĩa đích thực của ngữ vựng chưa
biết ấy.
Chẳng hạn, trang 29 có liệt kê từ khóa ăn ảnh mà ý nghĩa có thể suy đoán dễ
dàng (và lại được xác nhận bởi từ Anh ngữ tương đương viết kế bên là
“photogenic”) qua câu thí dụ “Chị Lan ăn ảnh
lắm: ở ngoài, chị cũng đẹp mà chụp ảnh thì hết xẩy.” Trang 306 có liệt kê từ
khóa kêu (to shout, scream, cry out) được dùng trong bốn ngữ cảnh khác nhau để
giúp học sinh hiểu nghĩa dễ dàng; một trong bốn ngữ cảnh ấy là câu giải thích gọn
gàng “Người ta kêu to tiếng là để cho người
khác biết và để ý đến.”
Kết hợp từ (collocations) là những nhóm chữ thường
đi với nhau theo một thứ tự nhất định, như “trời
ơi/lớn như thổi/nước đổ lá khoai/chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.” Dùng kết
hợp từ thông thạo sẽ giúp chúng ta nói và viết ngôn ngữ đang học giống như người
bản xứ. Vì thế chúng ta cần thuộc chúng để sử dụng trong những ngữ cảnh phù hợp.
Hồi còn là một học sinh trung học, tôi đã bỏ nhiều thì giờ để nhập tâm những kết
hợp của những động từ và tĩnh từ “đi với” các giới từ trong tiếng Anh như look
up to/look down on/proud of/angry with, và trong tiếng Pháp như commencer
à/dépendre de/fier de/prêt à.
Tôi mở cuốn sách ra và lựa “cầu may” được từ khóa
khang kiện/healthy và sự khang kiện/health (trang 316-317) để làm sáng tỏ thêm
những nhận định của tôi ở trên về nó. Từ khóa này là một trong vô số “đơn vị có
chủ đề” trong sách. Nó chứa đựng kiến thức của các lãnh vực khác nhau để có thể
trở thành một bài học súc tích về sức khỏe rất bổ ích và thích thú, giúp cho những
“nhà thám hiểm” trẻ tuổi gốc Việt gia tăng kiến thức tổng quát đồng thời thăng
hoa khả năng tiếng mẹ đẻ. Từ lãnh vực y học và sinh lý học là văn cảnh “Người bình thường, khỏe mạnh được coi là
khang kiện” và văn cảnh “Sự khang kiện
là trạng thái (state) dễ chịu (well being) bình thường về mặt tinh thần và sinh
lý của một cá nhân.” Từ lãnh vực văn hóa là văn cảnh “Cha bảo từ xưa đến nay, khi ta chúc nhau thì hay nói chúng tôi xin chúc
anh chị (ông bà/hai bác) khang kiện (mạnh khỏe/bình an khang cát)” và văn cảnh
“Trong nền văn hóa của ta, đó là những ước
mong chân thành có ý nghĩa nhất.” Và từ lãnh vực khoa học xã hội (social
studies) là văn cảnh “Danh từ sự khang kiện được đề nghị để dịch chữ health, và
cơ quan WHO (World Health Organization) được dịch là Tổ Chức Thế Giới về Sự
Khang Kiện. Sau cùng, cũng đáng kể là các kết hợp từ phổ thông “từ trước đến nay/xin kính chúc/được đề nghị/được
coi là” đã được dùng trong các ngữ cảnh phù hợp nhất.
Tuy chủ đích là để dạy ngữ vựng, cuốn
sách không quên nhấn mạnh mối liên hệ giữa ngữ vựng và ngữ pháp,
khiến tôi nhớ lại phương hướng ngôn-ngữ-vẹn-toàn (whole-language approach) do
Ken Goodman khởi xướng với thành quả thuận lợi, để giúp học trò tiến bộ, trong
cùng một bài học, bốn khả năng có liên hệ mật thiết là (1) nghe hiểu (listening
comprehension), (2) nói (speaking), (3) đọc (reading), và (4) viết (writing). Rất
nhiều từ khóa trong sách chứa đựng đủ tài liệu để các thầy cô sẵn sàng dạy học
trò cùng một lúc bốn khả năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt, như khuyến cáo
sư phạm hữu hiệu (đã được thời gian chứng tỏ) của Goodman.
Sau hết, tôi xin ghi nhận thêm rằng ngữ pháp Việt
truyền bá trong công trình này cũng tuyệt đối từ bỏ lối dạy quá lạc hậu là lấy
cấu trúc tiếng Pháp làm khuôn mẫu để “ép” cấu trúc tiếng Việt vào trong đó một
cách tức tưởi. Trong thời Pháp thuộc, một vài cá nhân quá ái mộ văn học Pháp đứng
ra làm công việc phi lý này hẳn đã quên mất rằng trong khi tiếng Pháp thuộc ngữ
hệ Ấn-Âu (Indo-European) và là một ngôn ngữ tổng hợp (synthetic) thì tiếng Việt
thuộc ngữ hệ Nam-Á (Austro-Asiatic) và là một ngôn ngữ phân tích (analytic). Ngữ pháp Việt trong sách “Ngữ Vựng Tiếng Việt” được giảng dạy
qua khuôn khổ ngữ pháp hoàn vũ (universal grammar) đang được áp dụng trong nền
giáo dục các nước tiền tiến nhất trên thế giới. Ngữ pháp hoàn vũ là cái
lõi chung (common core) cho tất cả tiếng nói loài người, dựa vào các nguyên lý
(principles) và bàng kế (parameters). Các nguyên lý chung (thí dụ như “Câu nào cũng phải có chủ từ”) thường được
thể hiện qua các hình thức khác nhau gọi là bàng kế (thí dụ như bàng kế “tiếng Pháp bắt buộc câu nào cũng phải có chủ
từ rõ rệt” so với bàng kế “tiếng Việt
thường cho phép chủ từ vắng mặt hoặc hiểu ngầm”). Do đó, người nào thông thạo
một ngoại ngữ tất nhiên phải hiểu thấu sự khác biệt giữa bàng kế tiếng mẹ đẻ và
bàng kế ngoại ngữ đó. Giáo Sư Trần Ngọc Ninh đã phát hiện ra nhiều bàng kế đặc
trưng (nhưng đôi khi cũng khá rắc rối) của ngôn ngữ chúng ta. Và ông đã rộng lượng
chia xẻ những kiến thức khả tín mới nhất, nhờ vào đó mà chúng ta sẽ có ngày
theo kịp những bước nhảy vọt ngoạn mục trong nỗ lực tìm hiểu những bàng kế đặc
thù của mọi ngôn ngữ thế giới, qua khuôn khổ đáng tin cậy nhất của ngữ pháp
hoàn vũ đương đại.
Tôi vô cùng hân hạnh và cảm kích được giới thiệu một
công trình giáo dục ngôn ngữ thượng đẳng của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, một học giả
kiệt xuất mà tôi đã ngưỡng mộ từ lâu.
Ngữ Vựng Tiếng Việt
2017/688 trang/$40
Cơ sở xuất bản: Viện Việt Học
Ðiện thoại liên lạc: 714-775-2050
2017/688 trang/$40
Cơ sở xuất bản: Viện Việt Học
Ðiện thoại liên lạc: 714-775-2050