Trong tranh chấp Biển Đông, Việt Nam chỉ sau Trung cộng
Ralph
Jennings (Forbes)
Chỉ sau Trung cộng
Trung
cộng ‘khơi mào’ nhiều vụ tranh cãi chủ quyền hàng hải ở Châu Á qua việc bồi đắp
và xây đảo nhân tạo, bổ sung cơ sở hạ tầng quân sự trên các đảo đó. Để tăng cường
thông điệp rằng Bắc Kinh có quyền hạn hơn bất cứ nước nào tại các vùng tranh chấp
trải dài 3,5 triệu cây số vuông ở Biển Đông, Bắc Kinh còn cho tàu hải giám tuần
tra xung quanh các vùng đặc quyền kinh tế của Brunei, Mã Lai, Phi Luật Tân và
Việt Nam. Ngoài khơi phía Đông, Trung cộng còn thường xuyên cho tàu di chuyển
qua vùng biển có tranh chấp với Nhật hiện nằm dưới sự kiểm soát của Tokyo.
Nhưng
đừng quên chú ý tới một nước khác: Việt Nam.
Quốc
gia có đường bờ biển trải dài 3.444 cây số này đang chứng tỏ họ là nước ven biển
có tư duy bành trướng thứ nhì, chỉ sau Trung cộng.
Bằng chứng
Năm
ngoái, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế của Mỹ cho hay Việt Nam bồi đắp
các đảo nhỏ ở Biển Đông nhiều hơn cả Trung cộng. Việt Nam nắm giữ 21 đảo nhỏ ở
quần đảo Trường Sa, hơn bất kỳ một đối thủ nào trong khu vực.
Năm
nay, Việt Nam làm mới lại thỏa thuận với công ty dầu khí quốc doanh Ấn Độ ONGC
để thăm dò nhiên liệu hóa thạch dưới đáy đại dương. Bắc Kinh có phần chắc phản
đối hành động này vì họ nói vùng biển ngoài khơi duyên hải phía Đông của Việt
Nam là một phần trong tuyên bố 95% Biển Đông là của Trung cộng. Thế nhưng Việt
Nam không lùi bước, cùng với người bạn thân mới, Ấn Độ.
Các
tàu cá của Việt Nam, chiếm đáng kể trong tổng số 1.72 triệu tàu cá hoạt động
trên Biển Đông, vẫn bị các nước đuổi về tận từ Nam Dương hay Thái Lan, theo các
học giả nghiên cứu tranh chấp Biển Đông.
Hai
ngư dân Việt thiệt mạng tháng trước tại địa điểm cách Phi Luật Tân 34 cây số
trong vụ tai nạn có liên quan đến một tàu chấp pháp của Manila.
Tính
tới 10 năm trước, cá chiếm 10% doanh thu xuất khẩu của Việt Nam, theo cuộc khảo
sát của Đại học British Columbia. “Trữ lượng
cá của Việt Nam đã cạn kiệt, nên họ phải đánh bắt xa hơn để tiếp tục hành nghề,”
nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp thuộc Viện Nghiên cứu ISEAS Yusof Ishak ở Singapore
nhận định. “Và khi họ đánh bắt xa hơn, họ dễ rơi vào hải phận của các nước và
phạm tội đánh bắt cá bất hợp pháp.”
Khi
Đài Loan khẳng định sự hiện diện trên đảo Thái Bình (Việt Nam gọi là Ba Bình),
Hà Nội phản đối. Cho dù Thái Bình là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa ở Biển
Đông, Đài Loan không chiếm nhiều phần trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và
thậm chí còn dùng các cơ sở trên đảo Thái Bình giúp đỡ ngư dân Việt khi hoạn nạn.
Bộ
Ngoại giao Việt Nam chính thức phản đối ít nhất một lần hồi năm ngoái và lần nữa
vào tháng 3 năm nay khi Đài Loan tập trận bắn đạn thật. “Họ nói hoạt động của Đài Loan xâm phạm chủ quyền của họ,” Phó hiệu
trưởng Trường Quan hệ Quốc tế tại Đại học Quốc gia Chengchi ở Đài Loan, ông
Huang Kwei-bo, nói. “Hễ Đài Loan có động thái gì, Việt Nam luôn phản đối. Cứ
như thế. Việt Nam khá quyết đoán.”
Trung
cộng cũng phải ‘để mắt’ tới Việt Nam. Bắc Kinh dùng các sáng kiến kinh tế để ‘kết
thân’ với các nước khác ở Biển Đông, nhưng với Việt Nam thì mọi chuyện cứ không
suông sẻ. Tháng 6 năm nay, một viên chức quân sự cấp cao của Trung cộng cắt ngắn
chuyến công du Việt Nam vì nước chủ nhà lúc đó muốn thăm dò dầu khí ở vùng biển
tranh chấp. Tới tháng 8, Ngoại trưởng hai bên hủy một cuộc họp, có thể là do
tranh chấp chủ quyền lãnh hải, bên lề một sự kiện của ASEAN.
Cũng
dễ hiểu. Việt Nam, đất nước 93 triệu dân, đang tiến
lên về mặt kinh tế, phụ thuộc vào biển. Tinh thần chủ nghĩa dân tộc cũng tăng,
và người dân muốn chính phủ mạnh tay trong các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ.
***
Việt Nam và các vùng nước bị khuấy đục ở biển Đông
Carl
Thayer
Hồi tháng 1/2017, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Rex Tillerson
đã gây ra một cơn bão truyền thông tại Trung cộng (TC) trong phiên điều trần
chuẩn nhận chức vụ của ông khi trả lời câu hỏi liệu ông có ủng hộ một thái độ
quyết đoán hơn đối với TC hay không. Tillerson trả lời, “Chúng ta sẽ
phải gửi tới TC một tín hiệu rõ ràng rằng, thứ nhất, dừng lại việc xây dựng
đảo và, thứ hai, sẽ không được cho phép truy cập vào những đảo này”. Tillerson cũng kêu gọi các đồng
minh của Mỹ trong vùng “bày tỏ sự ủng hộ.”
Thời
báo Hoàn Cầu của TC đáp trả, “Tillerson tốt hơn nên nghiên cứu
thấu đáo chiến lược năng lượng hạt nhân nếu ông muốn buộc một cường quốc hạt
nhân lớn rút ra khỏi vùng lãnh thổ của riêng mình … Nếu nhóm ngoại giao của
Trump định hình quan hệ Trung-Mỹ trong tương lai như đang làm hiện giờ, thì
hai bên tốt hơn nên chuẩn bị cho một cuộc đụng độ quân sự”. Cựu Thủ tướng
Úc Paul Keating mô tả nhận xét của Tillerson “đơn giản là buồn cười” và “đe dọa
kéo Australia vào chiến tranh”.
Trong
hai năm rưỡi qua, TC đã bắt tay vào một kế hoạch tổng thể để hậu thuẫn các
yêu sách về “chủ quyền không thể tranh cãi” của họ ở biển Đông qua việc xây
dựng và củng cố các rạn đá và bãi triều thấp trong quần đảo Trường Sa. TC đã
xây dựng sân bay dài 3 km trên ba thể địa lý và sau đó xây dựng hơn hai
chục chỗ chứa kiên cố liền kề các sân bay này, có khả năng chứa máy bay phản
lực, máy bay ném bom, máy bay chiến đấu điện tử và máy bay tiếp nhiên liệu trên
không. Trong diễn tiến gần đây nhất, TC đã xây dựng các hệ thống phòng thủ
điểm trên cả 7 thể địa lý họ chiếm đóng, có cả súng phòng không và hệ thống
tên lửa.
Việc
quân sự hóa của TC trên quần đảo Trường Sa đã được sự quan tâm rộng rãi của
các phương tiện truyền thông trên thế giới, các chuyên gia về an ninh khu vực
và các nhà bình luận học thuật. Các nỗ lực của Việt Nam trong việc củng cố
sự kiểm soát của mình đối với 21 thể địa lý mà họ đang trú đóng ít được
chú ý hơn.
Chính
phủ hiện nay ở Hà Nội, chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, được chính thức thành lập
năm 1976 sau khi Việt Nam thống nhất về chính trị. Trước khi Sài Gòn sụp
đổ vào tháng 4 năm 1975, Lực lượng Đặc biệt Việt Nam đã nắm quyền kiểm soát
các thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa, lúc đó do VNCH (Nam Việt Nam)
trú đóng. Những thể địa lý này đã được một cộng đồng hài quân và
dân sự nhỏ trú đóng kể từ đó. Năm 1992, Việt Nam đã lắp đặt máy thu phát vệ
tinh để đưa truyền hình màu tới Trường Sa. Năm 1994, Việt Nam đã xây dựng một
ngọn đèn biển trên đá Tây (West London Reef) và từng bước nâng cấp cơ sở vật
chất trên tất cả các thể địa lý của mình.
Trong
số 21 thể địa lý mà Việt Nam trú đóng trong quần đảo Trường Sa, 9 thể là
đá nằm trên mặt nước khi thủy triều dâng cao, và 12 là bãi triều thấp mà Việt
Nam có xây dựng các công trình trên đó. Việt Nam
nói rằng họ vẫn duy trì 33 điểm đóng quân ở quần đảo Trường Sa, với một
số thể địa lý có hơn một điểm đóng quân.
Ngũ Giác Đài nói rằng Việt Nam duy trì 48 tiền đồn ở Trường Sa; con số này có thể
bao gồm 15 nhà giàn – hoặc điều mà Việt Nam gọi là “cụm dịch vụ kinh tế-khoa
học-kỹ thuật” – ở bãi Tư Chính (Vanguard Bank). Việt Nam không coi bãi Tư
Chính thuộc Trường Sa. Số lượng nhân viên quân sự trên 21 thể địa lý của Việt
Nam không được biết chắc chắn, chỉ ước tính khoảng từ vài trăm đến 1.000.
Trong năm 2007, Việt Nam đã vạch ra Chiến lược biển đến năm 2020,
trù tính lồng ghép nền kinh tế ven biển với các nguồn tài nguyên thiên nhiên
trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, bao gồm thủy sản và các nguồn dự
trữ dầu khí. Theo
Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, từ năm 2009 đến năm 2015, Việt Nam đã lắp đặt thiết bị
truyền thông và radar trên 15 thể địa lý và đã cải tiến hệ thống phòng
thủ điểm trên 18 thể địa lý.
Từ
năm 2010 đến năm 2012, Việt Nam đã xây dựng các tòa nhà hành chính, 5 cấu trúc
quân sự nhiều tầng và một đèn biển trên đá Tây. Ngoài ra, từ năm 2011 đến
năm 2015, Việt Nam đã xây dựng các bãi đáp trực thăng trên 6 tiền đồn.
Từ
tháng 8 năm 2011 đến tháng 2 năm 2015, Việt Nam đã cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng
trên đảo Sơn Ca (Sand Cay) bằng cách mở rộng bãi biển khoảng 2,1 ha, củng cố
tường bao chắn biển, xây dựng bến tàu, cảng và khu phức hợp lớn chứa bãi
đáp trực thăng, và các cấu trúc phòng thủ (hào, kho bảo vệ, công sự và chỗ
chứa cho hai pháo phòng không 20 milimet).
Từ
năm 2014 đến năm 2015, Việt Nam xây dựng một nhà hộp ba tầng, hai bến tàu, và
các tòa nhà có gắn các tấm pin mặt trời, ăngten truyền thông và vệ tinh trên
đá Núi Le (Cornwallis South Reef). Vào cuối năm 2014 và đầu năm 2015, Việt
Nam nạo vét hai kênh sâu ở phía nam đá Núi Le, cho phép các tàu lớn không thể
chạy trên kênh tự nhiên nhỏ có sẵn. Việt Nam cũng đã xây dựng được những đảo
nhân tạo nhỏ dọc các kênh mới và bắt đầu xây dựng nhiều công trình. Đến tháng
8 năm 2015, Việt Nam đã thêm khoảng 1,6 ha cát vào phía đông nam và tây nam của
đá Núi Le và bắt đầu xây dựng một số tòa nhà. Tháng 12 năm 2015, bão Melor đã
quét mất đi khoảng 0,7 ha đất mới. Việt Nam nhanh chóng khắc phục những thiệt
hại ở phía tây nam.
Vào
ngày 7 tháng 5 năm 2015, Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến
lược và Quốc tế (AMIS) cho biết, ảnh vệ tinh xác nhận rằng Việt Nam đã bổ sung khoảng 65.000
mét vuông [6,5 ha] đất cho đá Tây. Một tuần sau, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng Việt Nam, tướng Phùng Quang Thanh khẳng định, Việt Nam đã tăng cường kè
cho một vài thể địa lý của Trường Sa để ngăn xói mòn của gió và nước. Tướng
Thanh lưu ý rằng, Việt Nam cũng xây dựng những ngôi nhà nhỏ có thể “chứa được một
vài người” và rằng “tầm cỡ và đặc tính công việc của chúng tôi là hoàn toàn
dân sự”.
Ngày
14 tháng 5 năm 2015, Đại sứ Việt Nam tại Phi Luật Tân, Trương Triều Dương, trả
lời các câu hỏi của báo chí về AMTI trong một email “Các hoạt động
của Việt Nam … hoàn toàn nhằm mục đích cải thiện cơ sở vật chất cũ để phục vụ
nhu cầu tối thiểu hàng ngày của những người sống trên các đảo thuộc thẩm quyền
của Việt Nam ở Trường Sa … Trên thực tế, Việt Nam đã nhiều lần tôn tạo một số đảo
thuộc thẩm quyền của mình, nhưng ở quy mô rất nhỏ, chủ yếu là xây dựng các bờ
kè chống xói lở bờ biển; xây dựng bến cảng; (và cung cấp) hậu cần cho đánh
bắt cá. Việc xây dựng và tôn tạo của chúng tôi không làm thay đổi hiện trạng”.
Một
năm sau đó, vào ngày 17 tháng 5 năm 2016, AMTI của CSIS báo rằng họ đã khảo sát
tất cả 21 đảo và rạn đá do VN trú đóng ở quần đảo Trường Sa và “thấy có bằng chứng về việc bồi đắp tại
10 đảo trong số đó. Những hình ảnh này… cho thấy, Việt Nam đã tạo ra hơn 120 mẫu
tây [48,6 hecta] đất mới ở biển Đông, chủ yếu ở đảo Trường Sa, Song Tử Tây, đảo
Sinh Tồn, và đá Tây. Phần lớn công việc này đã diễn ra trong hai năm qua.
So với TC đã tạo ra gần 3.000 mẫu tây [1214 ha] đất mới tại 7 thể địa lý
mà họ chiếm đóng trên quần đảo Trường Sa thì công trình của Việt Nam không
những nhỏ nhoi hơn nhiều mà cũng ít phá hoại môi trường hơn, vì họ không
thực hiện nạo vét quy mô lớn các rạn đá có các tiền đồn của Hà Nội đóng
trên đó. Công việc cũng chủ yếu (nhưng không phải luôn luôn) liên quan đến việc
mở rộng các đảo nhỏ đã có trước đó chứ không phải là tạo ra đất mới ở các
thể địa lý ngầm”.
Ba
phát triển lớn trong năm 2016 đáng được làm rõ thêm:
Thứ
nhất, vào ngày 9 tháng 8 theo báo cáo “trong những tháng gần đây”, Việt Nam đã
triển khai các dàn phóng tên lửa di động phạm vi mở rộng (EXTRA) trên 5
thể địa lý của quần đảo Trường Sa. Hệ thống EXTRA có tầm bắn 150 km và có
thể được sử dụng để bắn vào các sân bay của TC. Những người phát ngôn của Việt
Nam đã phủ nhận việc Việt Nam đặt các dàn phóng và tên lửa ở quần đảo Trường
Sa, “nhưng bảo lưu quyền thực hiện những biện pháp như vậy”.
Thứ
hai, ngày 15 tháng 11, ảnh vệ tinh xác nhận rằng Việt Nam đang mở rộng đường
băng trên đảo Trường Sa (Lớn) từ 760 mét (m) lên 1,2 km và đang xây dựng hai
nhà chứa máy bay lớn. Việc mở rộng sân bay mới sẽ cho phép Việt Nam triển khai
máy bay tuần tra biển PZL M28B và máy bay vận tải CASA C-295.
Thứ
ba, vào ngày 30 tháng 11, ảnh vệ tinh cũng khẳng định, rằng Việt Nam đã bắt đầu
nạo vét cát ở đá Lát (Ladd Reef) nhằm mở một kênh mới cho tàu đánh cá và
tàu tiếp tế có thể ra vào.
Trong
những năm gần đây, TC đã biện hộ cho việc họ xây dựng các đảo nhân tạo trên
cơ sở là để chạy theo kịp và làm những gì mà các nước đòi chủ quyền khác
khác đã làm. Tuy nhiên, các hoạt động của TC đã thu lại và tiến sâu hơn vào
toàn bộ các cung bậc của việc quân sự hóa hơn bất kỳ quốc gia yêu sách
nào khác.
Xem xét lại các hoạt động của Việt Nam ở Trường Sa cho thấy, việc
Việt Nam trú đóng các thể địa lý ở Trường Sa xảy ra gần 4 thập niên trước
những hoạt động xây dựng gần đây của TC. Việt Nam đã quân sự hóa các đảo của mình
trong chừng mực mà bộ binh hải quân cấu thành việc quân sự hoá, ở bậc
thấp của nó, trong giai đoạn chiến tranh lạnh, và trước khi Tuyên bố về Cách
ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) năm 2002 được thông qua.
DOC
kêu gọi tất cả các bên, kể cả TC, “tự kiềm
chế trong việc tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp
và gây ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định trong đó, bên cạnh những việc
khác, có việc kiềm chế các hành động đưa người đến cư trú trên các đảo
không có người ở, các rạn san hô, bãi cát, và các thể địa lý khác …”
Từ
năm 2002, Việt Nam đã xây dựng các công trình phòng thủ nhỏ (hệ thống phòng thủ
điểm và các cấu trúc quân sự nhiều tầng), bãi đáp trực thăng và thiết bị
truyền thông quân sự và radar.
Ngoại
lệ chính là việc Việt Nam mở rộng đường băng trên đảo Trường Sa để phục vụ
cho máy bay tuần tra biển và việc Việt Nam đặt các dàn phóng EXTRA (nhưng
không phải tên lửa) trên 5 thể địa lý của Trường Sa. Điều này tạo thành bước
tiến quan trọng trong việc quân sự hóa nhưng không sao chép theo quy mô các hoạt
động của TC.
Việc triển khai các dàn phóng EXTRA phải được xem như là phản ứng
của Việt Nam đối với việc TC xây dựng các trạm vận hành tiền phương cho các đường
băng và nhà chứa máy bay, có khả năng phục vụ hầu như tất cả các máy bay
quân sự TC có và các hệ thống phòng thủ điểm với súng và tên lửa phòng
không.
Tất cả các công trình xây dựng khác của Việt Nam có vẻ theo
hướng dân dụng, chẳng
hạn như việc gia cố tường bao chắn biển, việc xây dựng cầu cảng, bến tàu
và mở rộng các kênh đi lại. Các hoạt động mở rộng đất đai của Việt Nam chỉ
khoảng 4% “việc bồi đắp đất” của TC.
Các nỗ lực của Việt Nam trong phòng vệ tự lực đi cùng với các nỗ lực
chính trị và ngoại giao nhằm tìm kiếm một giải pháp hoà bình cho các tranh chấp
lãnh thổ và giữ cho biển Đông ổn định. Chẳng hạn, Việt Nam đã phản ứng lại với
Hoạt động Tự do đi lại của Hoa Kỳ gần đây nhất do USS Decatur thực hiện vào
tháng 10 năm 2016, qua việc tuyên bố rằng “Việt Nam tôn trọng việc
các quốc gia khác thực hiện các quyền của họ ở biển Đông theo quy định của
UNCLOS, trong đó có quyền tự do đi lại trên biển và trên không. Các yêu
sách biển và các hoạt động có liên quan của các nước phải phù hợp với luật
pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS”.
Gần
đây nhất, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã đến thăm
Bắc Kinh từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 1, bên cạnh các vấn đề khác, ông đã
thảo luận về Biển Đông với đối tác Tập Cận Bình.Theo thông cáo chung, “Hai
bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện và hiệu quả ‘Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở biển Đông’ (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất, sớm xây dựng ‘Bộ
Quy tắc ứng xử ở biển Đông’ (COC); kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có
hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển
Đông”.
Nói tóm lại, chính sách của Việt Nam đối với vùng nước bị khuấy
đục ở biển Đông là dấn vào một chương trình phòng thủ tự vệ vững mạnh ở
trong nước (Việt
Nam vừa nhận tàu ngầm Kilo thứ sáu và là tàu cuối cùng), trong khi lôi kéo cả TC lẫn Hoa Kỳ (cũng như các cường quốc
khác – Nga, Ấn Độ và Nhật Bản) vào việc duy trì sự cân bằng sức mạnh ở biển
Đông.
Carlyle Thayer, Song Phan dịch
Carlyle Thayer là Giáo sư danh dự, Đại học New South Wales tại Học viện Quốc phòng, Australia, Canberra. Bài viết này lần đầu tiên được xuất bản trên Hiệp hội Chính sách Châu Á Thái Bình Dương và có thể tìm thấy ở đây.
(Tiếng
Dân)