Đi tìm nguyên nhân đại dịch ở Ấn Độ: Phật có còn ngự nơi sông Hằng?
Số ca COVID-19 tại Ấn Độ đã vượt mốc 20 triệu người, sau 12 ngày liên tiếp ghi nhận hơn 300,000 ca nhiễm mới mỗi ngày theo thông tin từ Bộ Y tế Ấn Độ. Giới chuyên gia y tế dự đoán số ca nhiễm COVID-19 của Ấn Độ có thể cao hơn gấp 5–10 lần.
Dịch bệnh bùng phát ở Ấn Độ khiến người dân thế giới không khỏi bàng hoàng, không chỉ bởi mức độ nguy hiểm và quy mô lớn của thảm họa, mà còn bởi Ấn Độ được biết đến là đất nước của Phật giáo, nơi Phật Thích Ca Mâu Ni từng thuyết Pháp, một đất nước lớn với nền văn hóa tín ngưỡng phong phú. Vậy vì sao người dân nơi miền đất của Phật đó lại phải hứng chịu thảm họa đáng sợ như vậy?
Tìm hiểu sâu hơn về tín ngưỡng tâm linh của người Ấn Độ, sẽ thấy Ấn Độ ngày nay không chỉ là đất nước của Phật giáo mà còn nổi tiếng bởi những hủ tục rùng rợn, khác xa so với những điều Phật giáo nguyên thủy của Phật Thích Ca Mâu Ni. Một trong những hủ tục đáng sợ ở đất nước này là tàn sát động vật, thậm chí cả người.
250,000 động vật bị hiến tế để “cầu may”
Thế giới từng kinh hoàng trước Lễ hội “thảm sát” súc vật cầu may tại Ấn Độ khi hơn 250,000 con vật bị giết để cúng tế cho nữ thần Hindu kéo dài 2 ngày (28, 29 tháng 11/2014) lớn nhất ở Nepal. Lễ hội cúng tế này diễn ra 5 năm một lần thu hút được hàng triệu tín đồ Hindu đổ về tham dự.
Khoảng 80% người Ấn Độ tự xem mình là người theo Hindu giáo (hay còn gọi là Ấn Độ giáo). Các quan chức địa phương cho biết nghi lễ tôn giáo này diễn ra tại đền thờ nữ thần Gadhimai ở Bariyarpur, Nepal, gần biên giới Ấn Độ. Bằng cách cúng tế hàng ngàn con trâu, chim bồ câu và dê, các tin đồ tin rằng Nữ thần Gadhimai sẽ đem lại sức mạnh, may mắn và thịnh vượng cho dân chúng.
Lễ hội bắt đầu vào lúc bình minh của ngày đầu tiên với nghi lễ gọi là “Pancha bali” giết chết 5 con vật: một con chuột, một con dê, một con gà trống, một con lợn, và một con chim bồ câu.
Tiếp đó, khoảng hơn 200 thợ mổ gia súc chuyên nghiệp sẽ dùng dao chém lìa đầu các con vật đang được nhốt trên một khu đất rộng. Khoảng 6,000 con trâu và gần 100,000 con dê và gia cầm như chim bồ câu và gà đã bị giết để hiến tế cho Nữ thần trong ngày đầu tiên 28/11. Hơn 100,000 con vật khác cũng sẽ bị giết mổ khi lễ hội kết thúc vào ngày 29/11.
Đầu của các con vật sẽ được chôn trong một cái hố lớn để cúng tế cho Nữ thần, trong khi da sẽ được bán cho các thương nhân đã ký hợp đồng trước đó.
Khoảng 2.5 triệu tín đồ đã có mặt trong lễ hội để chứng kiến các nghi lễ cũng như thể hiện lòng thành kính đối với Nữ thần sức mạnh của họ.
Người ta không thể ước tính được tổng số các loài động vật đã bị giết mổ trong các nghi lễ. Thông thường mỗi người đến tham dự sẽ đem theo một con vật hiến tế để cầu may mắn. Trong lễ hội được tổ chức năm 2009, hơn 250,000 con vật đã bị giết chết.
Tôn giáo có phải là lý do thích hợp cho việc sát sinh?
Các chính giáo lớn như Phật Giáo, Đạo Giáo, Thiên Chúa Giáo có quan điểm tương đồng về quyền động vật, xuất phát từ giáo lý: “Bất hại” – “Cấm sát sinh” nghĩa là tôn trọng quyền được sống của các sinh mệnh, cả người lẫn động vật.
Hầu hết các tôn giáo đều tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết; linh hồn này tái sinh vào các cảnh giới khác nhau và chịu sự chi phối của luân hồi. Con người sống trên đời bởi hành xử thiện hay ác mà tạo ra “Nghiệp”. Nếu con người tạo ra nghiệp tốt, sẽ được đầu thai vào chỗ giàu sang danh vọng. Nếu con người tạo ra nghiệp xấu, sẽ bị đầu thai vào chỗ nghèo hèn hay thành thú vật hoặc cây cỏ. Bởi vậy có mối liên hệ giữa người và động vật trải qua nhiều đời kiếp khác nhau trong “luân hồi”. Những niềm tin này đã dẫn đến nhiều người theo tôn giáo thực hành ăn chay, nghiêm cấm việc giết hại động vật.
Kinh Veda, cuốn kinh sách đầu tiên của Ấn Độ giáo (bắt nguồn từ thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên), giảng giáo lý gọi là “ahimsa” nghĩa là “bất bạo động” đối với tất cả chúng sinh. Bất bạo động, không sát sinh từng là tư tưởng cốt lõi trong tôn giáo Cổ đại Ấn Độ. Theo đó, việc giết một con vật bị xem là vi phạm giới luật “cấm sát sinh” và sẽ gây ra nghiệp xấu.
Nguyên tắc ‘cấm sát sinh’ trong Phật giáo thời kỳ đầu chính yếu tập trung vào việc không sát hại thú vật. Vào thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, việc tế lễ muông thú theo nghi lễ Bà-la-môn giáo là rất phổ biến. Đức Phật nhận thấy không có giá trị hay lợi ích tinh thần nào ở nơi những loại tế lễ như thế này, ngược lại thấy nó đem lại những tác hại cho người thực hành tế lễ vì tạo nên ác nghiệp.
Mối quan tâm của Đức Phật về giá trị của đời sống phát xuất từ lòng từ bi, ông phê phán việc tử hình, chiến tranh, săn bắn, tế lễ muông thú, tự tử, và sự nhẫn tâm đối với chúng sinh. Bởi vậy khi Đức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Phật giáo quyết liệt chống lại những tế lễ muông thú và chỉ ra rằng những tế lễ như vậy đem lại những tai họa to lớn. Trong năm giới căn bản của Phật tử, “cấm sát sinh” thuộc về giới thứ nhất. Nhiều tín đồ Phật giáo thực hành ăn chay và phóng sinh, mua động vật sắp bị giết mổ để thả về tự nhiên.
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn thì Phật giáo bắt đầu phân hóa thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng khác nhau, với nhiều khác biệt. Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni giảng đã bị các cải biến theo lời giải thích của các tăng nhân sau này, dựa trên Pháp lý mà họ tự ngộ, chứ không giảng nguyên gốc những lời của Đức Thích Ca Mâu Ni. Phật giáo thuở xưa chỉ thờ cúng một vị Phật duy nhất là Thích Ca Mâu Ni, nhưng ngày nay Ấn Độ giáo thờ hơn một triệu vị thần khác nhau; họ cũng không thực hành theo các giới luật mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã giảng.
Phật giáo tại Ấn Độ đã bắt đầu suy tàn từ thế kỉ thứ 7, và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn Độ vào thế kỷ thứ 14 do sự đàn áp của các chính quyền Hồi giáo. Ngày nay tại Ấn Độ có rất nhiều tôn giáo đồng thời lưu hành; tuy nhiên cơ bản đã khác biệt quá xa so với Phật giáo nguyên thủy. Đó là lý do mà những giới luật hàng đầu trong Phật giáo như sát sinh lại biến thành những lễ hội thảm sát giết hại hàng triệu sinh mệnh để hiến tế Thần.
Nhưng không chỉ động vật, Ấn Độ ngày nay còn được biết đến với rất nhiều hủ tục đáng sợ, trong đó có cả giết người.
Những hủ tục rùng rợn
Năm 2001, Cục Tội phạm quốc gia Ấn Độ thống kê có tới gần 7,000 phụ nữ tại quốc gia này bị gia đình chồng thiêu sống chỉ vì không có đủ của hồi môn.
Từng là một đất nước của Phật giáo, nhưng ngày nay người ta lại biết đến Ấn Độ với những hủ tục giết người man rợ, như giết người vì thanh danh dòng tộc là một trong những hủ tục gây chấn động nhất ở Ấn Độ vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nếu một thành viên làm điều gì đó đi ngược lại với quy tắc, quy định của gia đình, dòng họ, cộng đồng, họ có thể bị bài xích thậm chí bị giết để tránh tiếng ô nhục cho gia đình, cộng đồng.
Một trong những nghi lễ gây phẫn nộ nhất ở Ấn Độ là đánh rơi đứa trẻ sơ sinh. Tại đền thờ Sri Santeswar gần Indi, Karnataka, nghi lễ này đã được phổ biến khoảng 700 năm nay. Để trẻ được ban phước lành, đứa trẻ thường được đánh rơi từ độ cao khoảng 15 mét và đám đông ở dưới sẽ tìm cách đón lấy em bé. Hủ tục này bị lên án mạnh mẽ bởi Ủy ban Quốc gia về Bảo vệ quyền trẻ em Ấn Độ vì những mối nguy hiểm tiềm tàng.
Một nghi lễ rất phổ biến của người Ấn Độ là buộc người phụ nữ phải hiến dâng mái tóc của mình cho thần. Họ tin rằng càng hiến dâng nhiều tóc thì thần càng ban nhiều phước cho người ấy. Thậm chí những người Kỳ Na Giáo còn tiến hành một nghi thức đau đớn và gây phẫn nộ hơn, là tuốt tóc của các tu sĩ cho đến khi hói, trọc đầu.
Cộng đồng người Hồi giáo Ấn Độ đã tiến hành nghi lễ tự đánh bằng roi, dao và than khóc khi thân thể trần truồng. Họ nghĩ mình sẽ được thần linh chấp nhận và ban phước lành khi ngâm mình trong máu mà không cảm thấy đau đớn.
Theo người Ấn Độ, thánh Aghori là thành viên của một giáo phái Hindu thờ phụng thần Shiva. Giáo phái được biết đến với các nghi lễ kinh dị sau khi chết.
Họ không cấm kỵ ma túy, rượu, hành vi tình dục kỳ cục. Sau khi có người chết, họ sẽ bôi nhọ thi thể bằng tro hỏa táng, sử dụng xương và xác chết của con người làm bát hoặc đồ trang sức. Các thành viên của giáo phái thậm chí ăn thịt đồng loại một cách công khai.
Phật còn ngự nơi sông Hằng?
Cùng với sự biến mất của Phật giáo chính truyền chân chính, và sự phát triển của rất nhiều tôn giáo khác, Ấn Độ ngày nay có vô số hủ tục đáng sợ và những nghi lễ kinh dị; tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng đã hoàn toàn trái ngược với những giáo lý chân chính. Thảm sát động vật và sát hại người đã trở thành những cách hành lễ man rợ của tín ngưỡng, tập tục.
Phải chăng đó là lý do mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, khải thị cho người đời sau rằng: 2500 sau khi Ngài qua đời, nhân loại sẽ đến thời kỳ mạt Pháp?
Bài học về sự biến mất của Phật giáo chân chính tại Ấn Độ có thể thấy không chỉ tại Ấn Độ mà còn ở các quốc gia khác. Những hành vi xa rời giáo lý nhà Phật hay Thiên Chúa trở nên hết sức phổ biến ngày nay. Thay vì thực hành tín ngưỡng chân chính, người ta sa vào các hình thức mê tín dị đoan; các tăng ni trong chùa cũng tự mình cải biến Phật Pháp, giảng những điều trái đạo, như cúng dường để giải nghiệp, cầu may… Người theo tôn giáo bởi thế cũng coi việc vi phạm các giới luật, trái với lời răn của Chúa, Phật như sát sinh, phá thai, ngoại tình, ly hôn, đồng tính luyến ái… là chuyện bình thường, thậm chí còn hết mực cổ súy. Chùa chiền không còn là nơi người ta tìm thấy sự thanh tịnh để tu tâm mà trở thành ngành kinh doanh siêu lợi nhuận.
Dù sao tôn giáo cũng chỉ là hình thức nơi người thường, cho nên con người có thể cải biến tôn giáo theo cách họ muốn, nhưng pháp lý của vũ trụ thì bất biến. Vậy nên thực hành những điều trái Đạo đều vẫn tạo Nghiệp, đều chịu pháp lý Nhân Quả báo ứng. Con người làm ra bất kỳ điều gì xấu thì sau này đều phải hoàn trả.
Phật gia giảng: Thần trong vũ trụ nhiều như cát sông Hằng. Trong Kinh điển Phật giáo, Đức Phật không chỉ dùng hình tượng cát sông Hằng để ví cho vô số chư Phật và chư Bồ tát trong thế giới mười phương, mà còn để chỉ dụ cho thần lực, pháp thân, và hào quang của Đức Phật.
Thảm họa đại dịch hôm nay ở Ấn Độ khiến người ta bàng hoàng tự hỏi, Thần Phật có còn ngự ở sông Hằng? Liệu khi con người đã rời xa lời răn của Phật thì Thần Phật còn ở đó cứu độ họ hay không?
Virus Vũ Hán khởi nguồn từ Trung Cộng, mục đích hủy hoại thế giới. Nhưng Thần cũng ở trong nguy cơ mà an bài sự thức tỉnh cuối cùng cho nhân loại. Đại thảm họa thực chất chính là một Cuộc phán xét của Thần Phật với đạo đức mỗi người. Vậy nên, trong đại dịch, chỉ có thể dùng chân tâm soi xét lại chính mình, quốc gia mình thì mới thấy được nguyên nhân gốc rễ của tai họa, phân biệt Chính Tà, mới tìm ra lối thoát vượt qua đại dịch.