Trung cộng “gục
ngã” nếu Hoa Kỳ tung đòn phong tỏa
Sean Mirski
Thực hiện phong tỏa đường biển, Mỹ
sẽ khai thác sự phụ thuộc nặng nề của Trung cộng vào ngoại thương, đặc biệt là
dầu mỏ, để làm suy yếu Trung cộng. Đây là công cụ ghê gớm của Mỹ để có thể khắc
chế hệ thống vũ khí chống tiếp cận/phong tỏa khu vực(A2/AD) đáng gờm của Trung
cộng.
Nhóm hàng không mẫu hạm tác chiến của Hoa Kỳ
Thách thức đang nổi lên do hiện đại hóa quân sự của Trung cộng đã khiến
nước Mỹ phải xem xét lại các chiến lược quân sự hiện tại và xây dựng những
chiến lược mới, điều được minh họa bằng các cuộc tranh luận đang diễn ra về
khái niệm “Tác chiến không-biển” (AirSea Battle – ASB), một khái niệm tác chiến
mới được Bộ Quốc phòng đưa ra. Nhưng trong vô số những chiến lược có thể, ý
tưởng về một chiến lược phong tỏa đường biển cần được xem xét kỹ lưỡng hơn.
Bằng cách thực hiện phong tỏa đường biển, Mỹ sẽ khai thác sự phụ thuộc nặng
nề của Trung cộng vào ngoại thương, đặc biệt là dầu mỏ, để làm suy yếu nhà nước
Trung cộng. Một cuộc phong tỏa có tổ chức cẩn thận vì thế có thể trở thành một
công cụ ghê gớm của sức mạnh quân sự Mỹ góp phần khắc phục thách thức đầy áp
lực từ hệ thống vũ khí chống tiếp cận/phong tỏa khu vực(A2/AD) đáng gờm của Trung
cộng. Một cuộc phong tỏa cũng có thể dễ dàng kết hợp với các chiến lược quân sự
thay thế, kể cả những chiến lược dựa trên khái niệm ASB.
Trong bối cảnh một cuộc chiến tranh Trung-Mỹ, nước Mỹ có thể cố gắng biến
sức mạnh quốc gia lớn nhất của Trung cộng – mô hình kinh tế định hướng xuất
khẩu, tăng trưởng bùng nổ của họ – thành một nhược điểm quân sự lớn. Để làm như
vậy, Mỹ sẽ thực hiện một cuộc phong tỏa đường biển đối với Trung cộng nhằm bóp
nghẹt phần lớn hoạt động thương mại hàng hải của Trung cộng. Trong những các
điều kiện thuận lợi, Mỹ sẽ có thể giành chiến thắng bằng cách làm suy yếu nền
kinh tế Trung cộng đủ nghiêm trọng để buộc họ ngồi vào bàn đàm phán.
Tuy nhiên, cho đến gần đây, một chiến lược phong tỏa phần nhiều bị bỏ qua,
có lẽ vì các chiến lược chiến tranh kinh tế dường như vốn đã là sai lầm trong
điều kiện tồn tại các mối quan hệ thương mại chặt chẽ giữa Trung cộng và Mỹ.
Nhưng nếu một cuộc xung đột nghiêm trọng nổ ra giữa hai nước, thì các lợi ích
an ninh trực tiếp của hai nước sẽ nhanh chóng vượt lên trên sự phụ thuộc lẫn
nhau về thương mại của họ và gây ra thiệt hại kinh tế rất lớn cho cả hai bên,
bất kể một cuộc phong tỏa có được áp đặt hay không.
Ngay cả khi một cuộc phong tỏa không bao giờ thực hiện, thì khả năng thực
hiện nó vẫn sẽ tác động đến chính sách của Mỹ và Trung cộng vì lý do răn đe. Chiến lược khu vực của Mỹ được xác định trên niềm tin
rằng, một cán cân quân sự có lợi sẽ răn đe và ngăn cản những âm mưu tiềm tàng
của Trung cộng tìm cách thay đổi hiện trạng bằng vũ lực, do đó có tác dụng trấn
an các đồng minh và duy trì sự ổn định chiến lược.
Khả năng thi hành một cuộc phong tỏa ảnh hưởng đến tính toán này còn có thể
có ảnh hưởng tương ứng đến các hành động của Mỹ và Trung cộng, cả về quân sự và
phi quân sự, vốn được dựa trên sự nhận thức về nó. Nếu một cuộc phong tỏa đường
biển là một chiến lược khả thi, nó sẽ tăng cường hệ thống răn đe của Mỹ và làm
giảm hiệu lực của bất kỳ nỗ lực tiềm năng nào của Trung cộng nhằm ép buộc Mỹ
hay đồng minh.
Hơn nữa, nếu tính khả thi của một cuộc phong tỏa có thể được nêu lên một
cách rõ ràng, nó sẽ còn nâng cao sự ổn định khủng hoảng và làm giảm triển vọng
leo thang do sự hiểu lầm ở cả hai bên về cán cân sức mạnh trong khu vực. Tóm
lại, đúng như Elbridge Colby đã nói:
“Một câu thành
ngữ vẫn còn đúng là cách tốt nhất để tránh chiến tranh vẫn là hãy chuẩn bị cho
nó”.
Trong khi một cuộc phong tỏa không phải là một điều không thể hoặc không
thích hợp trong mọi tình huống, thì nó cũng không phải là một công cụ sẵn sàng
trong kho vũ khí của Mỹ và sẽ chỉ khả thi chủ yếu trong những phạm vi nhất
định. Quan trọng nhất, nhiều nhà bình luận bỏ qua một thực tế là một cuộc phong
tỏa chính là một chiến lược phụ thuộc vào bối cảnh, điều phụ thuộc chủ yếu vào
môi trường khu vực.
Cuộc chơi của bốn cường quốc
Việc phong tỏa sẽ không được Mỹ khinh xuất sử dụng do
chi phí tiềm năng lớn của nó. Do đó, Washington có thể sẽ
chỉ xem xét thực hiện phong tỏa trong một cuộc xung đột kéo dài liên quan đến
những lợi ích sống còn; bất cứ lý do gì nhỏ hơn sẽ không hợp lý khi phân tích
chi phí-lợi ích cơ bản.
Nhưng quan trọng hơn là một chiến lược phong tỏa
sẽ phụ thuộc vào sự hợp tác của nhiều bên thứ ba trong khu vực. Nói cho
cùng, hoạt động thương mại của Trung cộng được thực hiện trên các vùng biển chủ
yếu là kết quả của những tính toán kinh tế, chứ không phải là do những hạn chế
vật lý; nếu Trung cộng bị phong tỏa, họ sẽ chuyển sang các nước giáp giới để
xin giúp đỡ.
Trong khi nhiều nước láng giềng của Trung cộng sẽ không thể tạo ra sự khác
biệt chiến lược vì địa lý hiểm trở hoặc lãnh thổ của họ quá nhỏ, ba nước có thể
có vai trò thiết yếu là Ấn Độ, Nhật Bản,
và Nga. Nhật và Nga sẽ rất quan
trọng trong việc giúp Mỹ cắt đứt các tuyến đường thương mại của Trung cộng
tương ứng ở phía nam và phía đông thông qua việc cấm vận quốc gia đối với Trung
cộng và gây sức ép với các nước láng giềng nhỏ hơn của họ cùng làm như vậy. Nếu
không có sự hợp tác của họ, nhiệm vụ của Mỹ sẽ trở nên khó khăn hơn.
Nước cuối cùng trong ba nước láng giềng đó của Trung cộng là Nga sẽ là có
vai trò then chốt để phong tỏa thành công, và có thể làm nghiêng cán cân của
phong tỏa nghiêng về phía lợi cho Trung cộng hay Mỹ. Một mặt, Nga có vị trí khá
thuận lợi để giảm bớt ảnh hưởng của cuộc phong tỏa đối với Trung cộng. Hoạt
động thương mại của Nga sẽ được miễn dịch trước sự ngăn chặn của Mỹ do kho vũ
khí hạt nhân và các lực lượng, vũ khí thông thường của Nga có thể ngăn cản bất
kỳ mưu toan ép buộc quân sự nghiêm túc nào của Mỹ.
Nhưng mặt khác, nước láng giềng phương bắc của Trung cộng cũng có thể rung
hồi chuông báo tử cho khả năng chống phong tỏa của Trung cộng. Ở cấp độ chính
trị, Moscow vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng đối với các quyết định ở thủ đô các nước
láng giềng Trung Á của Trung cộng và có thể thuyết phục họ từ chối lời cầu xin
của Trung cộng để các nước này đóng vai trò như các quốc gia quá cảnh. Nga cũng
có thể đảm bảo rằng, hai nhà sản xuất dầu láng giềng của Trung cộng sẽ không
còn cung cấp dầu cho Trung cộng nữa (tuy nhiên do bị Mỹ và phương Tây cấm vận
nên quan hệ Nga-Trung hiện tương đối nồng ầm nên khó có khả năng Nga đối đầu với
Trung cộng, trừ phi Mỹ có sự điều chỉnh chiến lược).
Trung cộng đang cố gắng xây dựng chiến lược chống tiếp
cận để đối phó với Hoa Kỳ
Vì thế, để
thực hiện được một cuộc phong tỏa có hiệu quả chiến lược đối với Trung cộng, Mỹ
sẽ cố gắng xây dựng một “liên minh tối thiểu” với Ấn Độ, Nhật Bản và Nga.
Nếu cả ba quốc gia cùng chung sức tham thực hiện cuộc phong tỏa của Mỹ, thì Trung
cộng sẽ bị đẩy vào vòng kiềm tỏa bóp nghẹt cả về kinh tế và chính trị. Tuy
nhiên, nếu không được thế, thì chiến lược phong tỏa sẽ “khu vực hóa” một cuộc
chiến tranh Trung-Mỹ theo một cách cơ bản là bất lợi cho lợi ích của Mỹ.
Một liên minh tối thiểu như vậy chỉ
có thể ra đời theo một cách duy nhất: nhằm vào những sơ hở của hành động quyết
đoán của Trung cộng nhằm giành quyền bá chủ khu vực vốn có tác động thúc đẩy
một sự ủng hộ của khu vực đối với sự phản ứng mạnh mẽ của Mỹ. Nếu không có yếu
tố một Trung cộng hung hăng, thì hành động cấm vận tập thể sẽ bị cản trở bởi
những hậu quả tiềm năng của cuộc phong tỏa, trong đó hậu quả không nhỏ là nguy
cơ xảy ra xung đột khu vực lớn hơn với Trung cộng. Bốn nước (Mỹ, Ấn Độ, Nhật
Nga) khó có khả năng tập hợp với nhau quanh một chính sách kiềm chế tiềm ẩn cho
đến khi mỗi nước đều cảm thấy, lợi ích quốc gia của mình có thể bị Trung cộng
đe dọa trong tương lai.
Trong khi một khả năng như vậy hiện
tại có thể cảm thấy xa vời, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Nga đều lo ngại, Bắc Kinh có
thể một ngày nào đó kết luận là họ phải sử dụng vũ lực để bảo vệ lợi ích của
mình và để giải quyết nan đề an ninh của họ trong những điều kiện thuận lợi. Cả
bốn cường quốc ngày càng tìm cách bảo hiểm tiền đặt cược của họ để chống lại
khả năng này. Nếu sức mạnh và ảnh hưởng của Trung cộng
ở châu Á tiếp tục tăng, thì sự liên kết giữa cả bốn quốc gia này sẽ được tăng
cường, không phải vì bất kỳ niềm tin nào về ý định hiếu chiến của Trung
cộng, mà là vì sự bất định hoàn toàn về vị thế tương lai của họ.
Chiến lược “vòng kim cô”
Kể cả khi giả định rằng, Mỹ có thể
tập hợp được một liên minh cần thiết, họ sẽ dứt khoát phải đối mặt với thách
thức về thực thi phong tỏa gây rắc rối cho tất cả các chiến lược phong tỏa hiện đại.
Về mặt tác chiến, các cuộc phong tỏa
được đặc trưng bởi khoảng cách từ bờ biển của quốc bị phong tỏa và chúng có hai
hình thức: gần và xa. Một cuộc phong
tỏa gần thường được thực thi bằng cách lập một hàng rào của các tàu chiến ở
ngoài khơi bờ biển đối phương để lục soát tất cả các tàu buôn đến hoặc đi và
ngăn chặn các tàu chở hàng lậu. Tuy nhiên, trong một thế kỷ rưỡi qua, các cuộc
phong tỏa gần ngày càng trở nên nguy hiểm do các nước tham chiến đã phát triển
được công nghệ tung sức mạnh từ bờ biển của họ.
Để đối phó, các cường quốc tiến hành
phong tỏa đã chuyển sang phong tỏa từ xa. Một cuộc phong tỏa từ xa giúp tránh
được các nguy cơ về quân sự vì ở gần bờ biển đối phương bằng cách bố trí lực
lượng, phương tiện phong tỏa ở xa, nhưng vẫn ngăn chặn được các tuyến đường
biển của đối phương và do đó, nó triệt phá được hoạt động thương mại của đối
phương giống như phong tỏa gần.
Một cuộc phong tỏa gần
hay phong tỏa từ xa đối với Trung cộng một mình nó không thể thành công do
những hạn chế đặt ra bởi những yêu cầu quân sự và bản chất của thương mại hàng
hải. Một mặt, một
cuộc phong tỏa gần thông thường sẽ cực kỳ khó khăn vì Mỹ muốn giảm thiểu các
nguy cơ quân sự cho các tàu chiến Mỹ. Một khi tiến gần hơn lãnh thổ Trung cộng,
các lực lượng Mỹ sẽ ngày càng đặt mình vào tầm uy hiếp của các hệ thống A2/AD
của Trung cộng, có thể làm hạn chế quyền tự do hành động của họ và kết quả là
những tổn thất nặng nề.
Các lực lượng Mỹ có thể tránh được
mối đe dọa từ hệ thống A2/AD của Trung cộng bằng cách tiến hành cuộc phong tỏa
gần bằng các tàu ngầm, lực lượng không quân tầm xa và thủy lôi; nhưng bằng cách
đó, cuộc phong tỏa cũng sẽ mất đi phần lớn khả năng của mình phân biệt giữa
hoạt động thương mại trung lập và và hoạt động thương mại của kẻ thù.
Mặt khác, logic đằng sau các cuộc
phong tỏa từ xa thông thường cũng bị mất hiệu quả như thế bởi các nhu cầu cấp
thiết của thương mại hiện đại. Ngày nay, nguyên liệu thô và hàng hóa chở trên
tàu biển có thể được bán và bán lại nhiều lần trong một hành trình, vì thế
không thể biết quyền sở hữu và điểm đến cuối cùng của hàng hóa trên tàu cho đến
tận khi tàu cập cảng. Mặc dù Mỹ có thể thiết lập một cuộc phong tỏa từ xa thông
thường ngăn chặn tất cả các tàu thuộc sở hữu Trung cộng hoặc mang cờ Trung cộng,
Trung cộng vẫn có thể đơn giản là mua hàng hóa của các tàu chở hàng trung lập
sau khi chúng đã đi qua vòng đai phong tỏa, làm thất bại hoàn toàn mục đích của
cuộc phong tỏa.
Hai vành đai phong tỏa
Để khắc phục sự yếu ớt
của hai kiểu phong tỏa, Mỹ sẽ tận
dụng những gì tốt nhất của cả hai thế giới và thực
hiện “hai vành đai” phong tỏa gồm hai vòng tròn đồng tâm bao quanh bờ biển Trung
cộng.
Trung tâm của phong tỏa
hai vành đai sẽ là “vành đai bên trong” của nó, vốn sẽ là một sự phong
tỏa gần khác thường chủ yếu nhằm vào việc ngăn chặn các tàu biển đi đến Trung
cộng mà không cần phải lên các tàu này trước. Vành đai này sẽ tạo ra một một
vùng loại trừ xung quanh bờ biển Trung cộng, khu vực bị tuyên bố là cấm vận
chuyển thương mại và được thực thi bởi một chính sách “bắn
chìm nếu trông thấy” thông qua việc sử dụng các
tàu ngầm tấn công, không quân tầm xa và thủy lôi. Khác với các phương
tiện quân sự khác, ba loại vũ khí này có thể hoạt động tương đối an toàn trong
tầm hoạt động của hệ thống các phương tiện A2/AD của Trung cộng bằng cách lợi
dụng khả năng chống ngầm yếu ớt của Trung cộng và lực lượng chống thủy lôi kém
cỏi của họ.
Trong khi bộ ba phương tiện quân sự
này sẽ không đảm bảo tạo ra được hàng rào hoàn toàn không thể vượt qua đối với
tàu bè, khu vực loại trừ vẫn có thể đạt được mục tiêu phong tỏa vì điểm tựa của
chiến dịch của Mỹ sẽ được đặt vào khả năng răn đe hơn là vào vũ lực. Ngay sau
khi các lực lượng Mỹ đã công khai đánh chìm nhiều tàu buôn lớn, phần lớn các
tàu khác sẽ bị răn đe để không cố vi phạm lệnh phong tỏa và dòng chảy liên tục
của thương mại hàng hải của Trung cộng sẽ nhanh chóng cạn kiệt.
Nhưng trong khi tàu ngầm, không quân
tầm xa và thủy lôi có thể thực thi hiệu quả một khu vực loại trừ như một phần
của vành đai phong tỏa bên trong, tất cả các phương tiện này là các công cụ
cùn, không thể nhận biết sự khác biệt giữa một tàu chở hàng hóa Trung cộng và
một con tàu vận chuyển hàng hoá Nhật Bản, chúng cũng không chặn lại, lên tàu
khám xét và lùng sục các tàu nghi vấn. Kết quả là vành đai phong tỏa bên trong
tự nó sẽ có khả năng gây ra những rắc rối chính trị
lớn khi Mỹ vô tình đánh chìm các con tàu trung lập, và Washington có thể
phải đối mặt thêm với những hậu quả chính trị do vùng loại trừ không thể để các
hàng hóa đáp ứng nhu cầu y tế và các nhu cầu cơ bản đến được Trung cộng.
Để đối phó với những hậu quả chính
trị đó, Mỹ sẽ thiết lập một vành đai phong tỏa thứ hai, “vành đai ngoài” cho phép sử dụng vũ lực một cách có
chọn lọc hơn, đồng thời có tác dụng như một thiết bị sàng lọc. Ngược lại với
vành đai phong tỏa bên trong, vòng đai ngoài phần lớn sẽ bao gồm các tàu chiến
tập trung vào cả việc phân biệt giữa các hoạt động thương mại khu vực khác nhau
với độ chính xác cao hơn và lẫn bổ sung một thành tố phi sát thương vào những
nỗ lực vô hiệu hóa có tính sát thương của vành đai bên trong. Vành đai ngoài sẽ
không phải là một điều kiện tiên quyết cho thành công của hoạt động phong tỏa,
mặc dù nó sẽ là một sự hỗ trợ lớn, nhưng nó sẽ là quan trọng trong việc đảm bảo
khả năng thành công chiến lược của nó.
Vành đai ngoài sẽ được thiết lập ở ngoại vi các vùng biển gần Trung cộng,
tức là bên ngoài tầm hoạt động của hệ thống A2/AD của Trung cộng và sẽ được tập
trung quanh các hành lang quan trọng trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á, trong
đó có eo biển Malacca. Mỹ sẽ lập các trạm kiểm soát
phong tỏa tại các hành lang (như eo Malacca) quan trọng nhất đối với
giao thông đường biển quốc tế, trong khi các hành lang nhỏ hơn sẽ bị đóng hoàn
toàn đối với giao thông tàu bè quốc tế.
Tại các điểm kiểm tra ở vành đai ngoài, Mỹ sẽ cần thiết lập và sắp xếp một chế độ kiểm tra nghiêm ngặt. Nếu Mỹ phát hiện ra một con tàu có đích đến Trung cộng, do Trung cộng sở hữu hoặc đăng ký tại Trung cộng, thì Mỹ có thể chặn nó lại.
Hạm đội Hoa Kỳ có thể phong tỏa “bóp chết” Trung cộng
nếu cần
Mỹ cũng có
thể áp dụng một hệ thống tương tự như hệ thống giấy quá cảnh Anh trong Thế
chiến II, nó sẽ cung cấp cho Mỹ một bản đồ không gian khá chính xác về vị trí
và đường đi của tất cả các tàu thương mại trong khu vực. Mỹ sau đó sẽ tích hợp
các bản đồ không gian của các giấy quá cảnh với hỏa lực của vành đai bên trong
để tạo ra một lực lượng mạnh mẽ chống lại những kẻ vi phạm chế độ phong tỏa,
đồng thời cũng làm giảm tỷ lệ các sự cố đánh chìm tàu vô ý, nhất là các tàu chở
hàng nhân đạo.
Tuy là một quá trình không hoàn hảo,
hệ thống giấy phép quá cảnh sẽ vẫn làm tăng đáng kể những rủi ro cho các con
tàu né tránh phong tỏa đến mức vi phạm chế độ phong tỏa trở nên quá nguy hiểm
khiến chúng không tìm cách vi phạm nữa, trừ những con tàu thích mạo hiểm nhất.
Nhưng có lẽ còn quan trọng hơn là nó sẽ giúp giảm bớt những ảnh hưởng chính trị
gây ra bởi việc tiêu diệt không phân biệt và gây chết người của vành đai phong
tỏa bên trong.
Ba yếu huyệt của Trung cộng
Mặc dù những hậu quả của một cuộc
phong tỏa sẽ là cực kỳ phức tạp, đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau, một cuộc phong
tỏa cũng sẽ có thể chứng tỏ là một công cụ làm kiệt sức mạnh mẽ như một phần
của chiến dịch tổng thể của Mỹ.
Nhưng trước hết phải công nhận rằng,
ngay cả sự phong tỏa hiệu quả nhất cũng sẽ không thể
ngăn chặn hoàn toàn các hoạt động thương mại của Trung cộng, bởi vì ngay
cả trong những điều kiện lý tưởng, Trung cộng vẫn sẽ có khả năng mua được các
mặt hàng và tài nguyên thiết yếu nhờ những quy luật không thể né tránh của cung
và cầu. Lệnh cấm vận trong khu vực mà Mỹ thiết lập càng hiệu quả, thì tỷ suất
lợi nhuận từ việc bán hàng nhập khẩu vào Trung cộng càng cao. Ngay cả khi tất
cả các nước láng giềng của Trung cộng đồng tình cấm vận nước này, Mỹ vẫn sẽ
phải bó tay với nạn buôn lậu tràn lan ở cấp độ phi nhà nước.
Một cuộc phong tỏa cũng
sẽ không thể trực tiếp làm suy yếu quân đội Trung cộng. Ví dụ, Trung cộng có thể các nguồn
dự phòng và kho dự trữ của mình, cùng với một mức độ nhập khẩu hạn chế và sản
xuất trong nước, để cung cấp nhiên liệu cho bộ máy quân sự của mình trong suốt
cuộc xung đột.
Vì vậy, giá
trị thực của một cuộc phong tỏa sẽ là khả năng của nó bắt Bắc Kinh phải chịu sự
thiệt hại tài chính cực lớn. Đặc biệt là một cuộc phong tỏa sẽ đẩy nền
kinh tế Trung cộng vào tình trạng suy sụp bằng cách đánh vào ba yếu huyệt:
sự phụ thuộc kép của Trung cộng vào cả nhập
khẩu nguyên liệu trung gian và nhập
khẩu nguyên liệu thô và mức độ sáng
tạo nội địa thấp. Trung cộng đã cơ cấu phần lớn nền kinh tế định hướng xuất
khẩu của mình xung quanh việc nhập khẩu các hàng hóa trung gian, một hiện tượng
đặc biệt rõ trong các khu vực công nghệ cao của kinh tế Trung cộng. Điểm yếu
này bị khoét sâu thêm bởi sự phụ thuộc khó tin của Trung cộng vào nguyên liệu
thô (trong đó có dầu mỏ) và sáng tạo công nghệ của nước ngoài làm cơ sở của các
quá trình sản xuất của Trung cộng.
Do cuộc phong tỏa nhằm vào cả ba khu
vực này, nó sẽ gây ra thiệt hại đáng kinh ngạc cho Trung cộng. Tất nhiên là Trung
cộng có thể dần tìm ra cách khắc phục cho mất đi khả năng tiến hành hoạt động
thương mại và họ có thể tái thiết nền kinh tế của mình từ dưới lên trên, nhưng
một cuộc xung đột tiếp diễn hiển nhiên vẫn có thể gây ra một tốc độ tiêu hao
kinh tế thật khủng khiếp, vượt quá khả năng bù đắp của Bắc Kinh.
Chiến hạm hải quân Trung cộng
Bối cảnh, việc tiến hành
và những hậu quả của một cuộc phong tỏa Mỹ đối với Trung cộng sẽ bị chìm sâu
vào vũng lầy của chính trị toàn cầu. Để vượt qua thành công những thách thức khác nhau của
cuộc phong tỏa, Mỹ và các đồng minh sẽ phải cân nhắc cẩn thận những ảnh hưởng
chiến lược của các hành động của họ với sự đóng góp của chúng cho hiệu quả của
sự phong tỏa tổng thể. Trong gần như mọi hoàn cảnh, sự đánh đổi sẽ là vô cùng
khó khăn về chính trị và sẽ đòi hỏi một mức độ linh hoạt cao và sáng tạo từ
phía Mỹ. Những tính toán thiệt hơn sẽ được thực hiện với những cân nhắc khác
nhau trong tâm trí mà trên hết là giá trị của các lợi ích của Mỹ bị tác động
trong cuộc xung đột.
Tuy nhiên, bất chấp những thách thức
lớn, một cuộc phong tỏa đường biển là có thể cả về mặt thực thi lẫn về mặt
chiến lược, mặc dù chỉ ở trong giới hạn nhất định. Thậm chí bất chấp một cuộc
phong tỏa hiệu quả tối đa, Trung cộng vẫn sẽ có thể đáp ứng các nhu cầu quân sự
của mình một cách vô thời hạn và Trung cộng có thể tồn tại dựa trên các nguồn
dự trữ dầu chiến lược, các kho dự trữ và lượng dự trữ ngoại tệ lớn trong một
thời gian dài. Kết quả là, hiệu quả của cuộc phong tỏa
sẽ tạo ra khả năng làm suy yếu kinh tế đối với Trung cộng.
Nếu Hoa Kỳ có thể xây dựng
được một liên minh tối thiểu gồm Ấn Độ, Nhật Bản và Nga, một nhiệm vụ sẽ phụ thuộc vào hành
vi hung hăng của Trung cộng, thì tốc độ suy kiệt kinh
tế của Trung cộng sẽ tăng đột biến thậm chí cả khi Mỹ giành được sự ủng
hộ chính trị, Mỹ cũng sẽ phải tiếp tục chiến lược phong tỏa vô thời hạn. Trong
bối cảnh này, khi mà Mỹ sẽ không thể lợi dụng sự phụ thuộc của Bắc Kinh đối với
thương mại hàng hải để đánh bại hẳn Trung cộng trong một cú đấm nhanh, nó vẫn
có thể giúp tiêu hao sinh lực của Trung cộng cho đến
khi Bắc Kinh cuối cùng phải chịu quy phục.
Sean Mirski
(Bài viết của tác giả Sean
Mirski đăng trên Journal Strategic Studies và National Interest)