Chỉ
trong bốn tháng làm việc với chủ quyền và độc lập rất hạn chế, Chính phủ Trần
Trọng Kim đã tạo biểu tượng, đặt nền tảng về pháp lý và giáo dục cho Việt Nam
nhiều năm sau.
Nội các Trần Trọng Kim chỉ tồn tại hơn
bốn tháng
Nội các Đế quốc Việt Nam của học giả Trần
Trọng Kim (1883-1953) tồn tại từ ngày 17/04 đến 25/08 năm 1945 gồm toàn các trí
thức : một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật sư.
Đó là các ông Trần
Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Hồ Tá Khanh, Trịnh Đình Thảo, Trần Trọng Kim, Vũ Ngọc
Anh, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Vũ Văn Hiền, Phan Anh và Nguyễn Hữu Thi.
Nhân chuyện một cuốn sách của Trần Trọng Kim vừa bị
thu hồi ở Việt Nam, các bạn tìm hiểu ít nhất năm việc lớn chính phủ của ông
làm được năm 1945 :
1. Lập lại quốc
hiệu Việt Nam
Đây là tên nước 'ước mơ' của Hoàng đế Gia Long nhưng
không được Thanh triều công nhận.
Tên nước Đại Nam do Vua Minh Mạng đặt đã bị Pháp
xóa để lập ra Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ trong Liên bang Đông Dương.
Được Nhật Bản trao trả 'độc lập', vua Bảo Đại và
chính phủ đã nhanh chóng tuyên bố quốc hiệu là Việt Nam.
Đây cũng là cái tên mà Nguyễn Thái Học, Phan Bội
Châu đặt cho các đảng phục quốc, cách mạng.
Riêng phái cộng sản chưa dùng tên này cho ba đảng đầu
tiên của họ mà từ 1930 đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
Quốc hiệu Việt Nam do chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố với thế giới sau đã
thành tên nước cho cả hai chế độ ở Nam và Bắc đến 1975 và ngày nay.
Đế quốc Việt Nam năm Bảo Đại 20 chọn cờ vàng ba sọc
đỏ với một sọc đứt quãng theo quẻ Ly của Kinh Dịch làm quốc kỳ.
Nhà Nho học Trần Trọng Kim dẫn sử để nói đó là màu cờ
vàng của Triệu Thị Trinh khi khởi nghĩa chống quân Ngô.
2. Dùng tiếng Việt làm quốc
ngữ và Việt hóa giáo dục
Dù có một số nỗ lực dùng tiếng Nhật thời Nhật Bản
chiếm Đông Dương, tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ hành chính bên cạnh tiếng Việt và
một số văn bản Hán ngữ đến năm 1945.
Hà Nội thời Pháp : phố mang tên nhà
thám hiểm thực dân Jean Dupuis ở lối vào Ô Quan Chưởng
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục,
đóng vai trò chính trong việc ra quyết định dùng tiếng Việt hệ quốc ngữ thay
tiếng Pháp.
Ông soạn các sách giáo khoa, gồm cả sách toán, kỹ
thuật lần đầu bằng tiếng Việt và đưa bộ Quốc văn Giáo khoa thư vào áp dụng
ngay trong niên học 1945-46 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Đây là cơ sở cho chương trình trung học
trên toàn Việt Nam ở cả hai miền dưới hai chế độ đối nghịch.
Các sách giáo khoa chịu ảnh hưởng của giai đoạn
Hoàng Xuân Hãn vừa giảng dạy, vừa nghiên cứu từ 1936 đến 1947.
Đó là thời gian ông xuất bản tiểu sử Lý Thường Kiệt
và La Sơn phu tử, soạn từ vựng danh từ khoa học Toán Lý Hóa cho người Việt
Nam.
3. Đòi lại miền Nam để thống
nhất lãnh thổ
Theo sử gia Lê Mạnh Hùng, ngày
16/06, Vua Bảo Đại ra tuyên bố thống nhất tương lai của ba kỳ về một.
Chính phủ Trần Trọng Kim cũng ngay lập tức
đàm phán với Nhật để đòi lại ba thành phố trực trị của người Pháp trước đó là
Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.
Cuộc gặp của Trần Trọng Kim với gặp Trung tướng
Yuitsu Tsuchihashi, Tư lệnh Quân đoàn 38 của Nhật tại Đông Dương trong tháng
7 đã đem lại kết quả quan trọng.
Quân Nhật đi xe đạp qua cầu Long Biên
vào Hà Nội tháng 9/1941
Tân chính phủ Việt Nam được bổ nhiệm lãnh đạo ba
đô thị lớn : Trần Văn Lai làm Thị trưởng Hà Nội, Vũ Trọng Khanh làm Thị trưởng
Hải Phòng và Nguyễn Khoa Phong làm Thị trưởng Tourane (Đà Nẵng).
Ở Hà Nội, bác sĩ Trần Văn Lai đã cho đổi tên phố từ
tên Pháp sang tên những vị anh hùng dân tộc Việt Nam.
Sang tháng 8/1945, Nhật Bản
đồng ý trao trả Nam Kỳ cho chính phủ Trần Trọng Kim và ông Nguyễn Văn
Sâm được bổ nhiệm làm Khâm Sai Nam Kỳ.
Không có quân đội riêng, chính phủ Trần Trọng Kim
chỉ dựa vào tình thế và quyết tâm của các trí thức để đàm phán với Nhật Bản.
Nhưng về mặt chính trị, tâm lý dân tộc và hành
chính, nhận lại Nam Kỳ là thành tựu có tính biểu tượng quan trọng.
Hành động này không chỉ xóa nỗi nhục bại trận -
cuộc chiến mất nước của Đại Nam bắt đầu từ Nam Kỳ - mà còn duy trì giấc mơ thống
nhất ba miền các bậc tiền bối nuôi dưỡng.
4. Soạn hiến pháp nhấn mạnh
tự do và độc lập
Dù không có thực quyền và không được các đại cường
công nhận - bởi là chính quyền có quan hệ mật thiết với Đế quốc Nhật - Trần Trọng Kim, đã lập ra Hội đồng dự thảo Hiến pháp.
Sau khi trao quyền lại cho chính phủ
Việt Minh, cựu hoàng Bảo Đại khi đó ngoài 30 tuổi, giữ chức Cố vấn tối cao
một thời gian với cái tên công dân Vĩnh Thụy
Hội đồng gồm các trí thức, văn nghệ sỹ nổi tiếng :
Phan Anh, Nguyễn Tường Long, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thai Mai, Tôn
Quang Phiệt, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Thinh, Hồ Hữu Tường.
Hiến pháp công nhận tự do lập nghiệp đoàn, các hội
nghề nghiệp.
Tổng hội Công chức ra đời để làm lực lượng chính trị
ủng hộ cho tân chính phủ.
Các hội đoàn thanh niên sau là cơ sở cho các phong
trào vũ trang chống Pháp của cả phe cộng sản và cộng hòa.
Trong Tuyên chiếu 03/05/1945, vua Bảo Đại đã viết :
"Muốn
cải-tạo quốc-gia, chính-phủ cần hành động cho quy-củ nghĩa là phải có hiến
pháp.
Hiến
pháp tương lai của Việt-Nam sẽ căn cứ vào sự hợp nhất quốc-gia, sự quân dân cộng
tác, và những quyền tự do chính-trị tôn-giáo cùng nghiệp-đoàn của
nhân-dân".
Đặc biệt, theo lời nhà vua, "Chính phủ ngày nay không phải phụng sự một
cá nhân hay một đảng phái nào cả".
Tuy nhiên, hoạt động lập pháp này đã
không hoàn tất được vì các công việc cấp bách hơn như cứu đói cho miền Bắc.
Theo sử gia Trần
Gia Phụng, chính phủ Trần Trọng Kim tuy được Nhật
hậu thuẫn, nhưng từ khi thành lập cho đến khi giải tán, đã hoạt động độc lập và
không lệ thuộc người Nhật.
5. Rút lui và
trao quyền cho thế hệ cách mạng
Các hạn chế của chính phủ Trần Trọng Kim
đã được nói đến nhiều, gồm cả việc không có Quốc hội, không có quân đội và
không được nước nào công nhận ngoài Đế quốc Nhật Bản.
Nội các này đã tan rã trong làn sóng
cách mạng nổi lên và mục tiêu giành giật vùng ảnh hưởng của
các đại cường.
Ý thức được những vấn đề đó, các trí thức trong
chính phủ này đã chọn con đường trao lại quyền lực không đổ máu cho một chính
quyền do Việt Minh lãnh đạo.
Được biết vua Bảo Đại đã không cho binh lính mai phục
bắn vào nhóm thanh niên theo Việt Minh trèo lên kỳ đài ở Huế hạ cờ vàng và kéo
cờ đỏ sao vàng lên cột ngày 21/08.
Nội các Trần Trọng Kim của Đế quốc
Việt Nam rút lui để cũng khép lại thời kỳ quân chủ để chuyển sang cách mạng và
cộng hòa
Tại Hà Nội, tuần hành của Tổng hội Công chức ngày
19/08 bị 'cướp cờ' biến thành biểu tình ủng hộ cuộc cách mạng do những người
cộng sản lãnh đạo.
Dù vậy, Khâm sai Đại thần Phan Kế Toại đã không cho
Bảo an binh bắn vào đoàn biểu tình và cũng không yêu cầu quân Nhật can thiệp.
Là chính phủ chuyên viên đầu tiên của
Việt Nam thời hiện đại, nội các Trần Trọng Kim đã rút lui trong hòa bình để
trao quyền lại cho thế hệ các chính khách và nhà làm cách mạng chuyên nghiệp.
Theo chính lời ông Trần Trọng Kim kể lại, quốc gia
Việt Nam đã nhanh chóng rơi vào giai đoạn tàn sát lẫn nhau giữa Việt Minh và
Việt Nam Quốc Dân Đảng trong các năm 1945-46.
Về thể chế, Đế quốc Việt Nam rút lui đã
khép lại thời kỳ quân chủ để chuyển sang cộng hòa với các tiến bộ và hệ lụy
như đã biết về sau.
BBC
tiếng Việt