Quyền tự do lập hội của các Hướng Đạo sinh Việt
Nam bị xâm phạm như thế nào ?
Ls
Nguyễn Lệnh (cựu Hướng Đạo sinh Hội HĐVN)
„Do
hoàn cảnh chiến tranh và hậu quả của Hiệp định Genève, nước Việt Nam đã bị phân
chia thành 2 miền Nam - Bắc với 2 chính thể khác nhau từ năm 1954 đến 1975 nên
có đến 2 Hội HĐVN được thành lập một cách hợp pháp: Một Hội HĐVN được thành lập
đầu tiên ở Hà Nội ngày 7/2/1946 dưới chính thể VNDCCH; và 7 năm sau, tại Sài
Gòn, dưới chính thể Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại, một Hội HĐVN thứ
hai được thành lập bằng một Nghị định riêng ngày 9/2/1953 đã gia nhập WOSM và
được công nhận là một Tổ chức Hội viên của WOSM vào năm 1957…
…Tuy
nhiên, theo thời gian, cả 2 Hội HĐVN có tư cách pháp nhân này đều bị chấm dứt
hoạt động một cách không rõ ràng và không bình thường. Việc chấm dứt pháp nhân
của 2 tổ chức xã hội này được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ở VN đưa ra
lời giải thích không phù hợp với các quy định của pháp luật ! Qua nghiên cứu
các chứng cứ và các tư liệu liên quan đến sự thành lập, hoạt động và chấm dứt
của 2 Hội HĐVN trong thời gian qua, tôi thấy cần làm rõ các khía cạnh pháp lý
về sự chấm dứt hoạt động của cả 2 Hội HĐVN nhằm trả lời câu hỏi là quyền lập
hội của các Hướng Đạo sinh 2 Hội HĐVN có bị xâm phạm hay không ? Nếu có thì cá
nhân, cơ quan hay tổ chức nào phải chịu trách nhiệm thế nào về sự xâm phạm
quyền lập hội của những HĐS VN theo quy định của pháp luật Việt Nam ?...“
Phong trào Hướng Đạo được một người Anh
là Huân Tước Robert Baden Powell sáng lập năm 1907. Hiện nay, trên thế
giới có khoảng trên 200 quốc gia, vùng, lãnh thổ có tổ chức Hướng Đạo; trong đó
có 165 Tổ chức Hướng Đạo Quốc gia được công nhận tư cách hội viên của Tổ chức
Thế giới của Phong trào Hướng Đạo (World Organization of the Scout Movement,
viết tắt là WOSM). Tại Điều 1 của Hiến chương WOSM có ghi rõ "Phong
trào Hướng Đạo là một phong trào giáo dục, phi chính trị và tự nguyện
cho giới trẻ không phân biệt nguồn gốc, nòi giống hay tín ngưỡng, phù hợp với
mục đích, nguyên tắc và phương pháp hình thành bởi Người sáng lập".
Ở Việt Nam, sau khi giành được độc lập từ
Pháp, chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) được thành lập vào ngày
2/9/1945, bầu cử Quốc hội đầu tiên vào ngày 6/1/1946 và một bản Hiến pháp được
thông qua ngày 9/11/1946. Trong những ngày tháng đầu tiên của một quốc gia độc
lập, đã có một Hội Hướng Đạo Việt Nam (Hội HĐVN) được thành lập hợp pháp vào
ngày 7/2/1946 và được Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh nhận làm Danh Dự Hội
Trưởng Hội HĐVN vào ngày 31/5/1946 (1). Nhưng sau đó, chiến tranh Việt - Pháp nổ
ra vào tháng 11/1946, đầu tiên là tại Hải Phòng, Chính phủ Việt Nam phải sơ tán
khỏi Hà Nội về các vùng núi lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra "Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến" ngày 19/12/1946.
Trong thời gian Chính phủ Việt Nam của Hồ
Chí Minh rút vào các vùng núi kháng chiến chống Pháp thì ngày 8/3/1948 Tổng
thống Pháp Vincent Auriel và Cựu hoàng Bảo Đại của Việt Nam đã ký kết Hiệp ước
Elysée ngày 8/3/1948, tuyên bố xác nhận "nền độc lập của Việt Nam" và
chính thức thành lập Quốc Gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là
Quốc trưởng Bảo Đại. Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu từ ngày 19/12/1946 và
kết thúc bằng Hiệp định đình chiến Genève ngày 20/7/1954. Người thay mặt cho
Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ký kết Hiệp định Genève là Tạ Quang
Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng VNDCCH và là Tổng ủy viên của Hội HĐVN. Theo Hiệp
định Genève 1954, lãnh thổ nước VN tạm chia làm 2 vùng kiểm soát, lấy vĩ tuyến
17 làm giới tuyến quân sự. Miền Bắc vĩ tuyến 17 do lực lượng VNDCCH kiểm soát;
còn miền Nam vĩ tuyến 17 do lực lượng Liên hiệp Pháp, trong đó có lực lương
Quốc Gia Việt Nam kiểm soát. Đến năm 1955 chính thể Quốc Gia Việt Nam ở miền
Nam đổi tên là Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và đến ngày 30/4/1975 nước Việt Nam
thống nhất cả 2 miền Nam, Bắc.
Do hoàn cảnh chiến tranh và hậu quả của
Hiệp định Genève, nước Việt Nam đã bị phân chia thành 2 miền Nam - Bắc với 2
chính thể khác nhau từ năm 1954 đến 1975 nên cũng có đến 2 Hội HĐVN được thành
lập một cách hợp pháp: Một Hội HĐVN được thành lập đầu tiên ở Hà Nội ngày
7/2/1946 dưới chính thể VNDCCH; và 7 năm sau, tại Sài Gòn, dưới chính thể Quốc
Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại, một Hội HĐVN thứ hai được thành lập bằng
một Nghị định riêng có tên "Nghị định số 326-NĐ/TN ngày 9/2/1953 của
Ông Bộ Trưởng Bộ Thanh niên và Thể thao" là Vũ Hồng Khanh ký tên, đã "Chiếu
đơn số 003-HT-HĐ ngày 12/6/1952 của ông Hội trưởng Hướng Đạo Việt Nam"
để ban hành Nghị định này và ghi rõ tại Điều thứ nhất là "Hội HĐVN được
phép hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam, theo bản điều lệ đính kèm theo nghị
định này". Chính Hội HĐVN thứ hai được thành lập ngày 9/2/1953 đã gia
nhập WOSM và được công nhận là một Tổ chức Hội viên của WOSM vào năm 1957.
Cả 2 Hội HĐVN này được thành lập và hoạt
động hợp pháp trong nhiều năm dưới 2 chính thể khác nhau nhưng có chung một tổ
quốc Việt Nam. Tuy nhiên, theo thời gian, cả 2 Hội HĐVN có tư cách pháp nhân
này đều bị chấm dứt hoạt động một cách không rõ ràng và không bình thường. Việc
chấm dứt pháp nhân của 2 tổ chức xã hội này được các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền ở VN đưa ra lời giải thích không phù hợp với các quy định của pháp luật !
Qua nghiên cứu các chứng cứ và các tư liệu liên quan đến sự thành lập, hoạt
động và chấm dứt của 2 Hội HĐVN trong thời gian qua, tôi thấy cần làm rõ các
khía cạnh pháp lý về sự chấm dứt hoạt động của cả 2 Hội HĐVN nhằm trả lời câu
hỏi là quyền lập hội của các Hướng Đạo sinh 2 Hội HĐVN có bị xâm phạm hay không
? Nếu có thì cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào phải chịu trách nhiệm thế nào về
sự xâm phạm quyền lập hội của những HĐS VN theo quy định của pháp luật Việt Nam
?
I. Khuôn khổ pháp luật về quyền lập
hội dưới các chính thể ở Việt Nam từ 1945 đến 2014:
1/ Quyền lập hội
trong khuôn khổ pháp luật dưới chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (1945 - 2014):
Có thể xác định khuôn khổ pháp luật về quyền lập hội từ 1945 đến 2014 bao gồm
các văn bản pháp luật sau đây:
- Hiến pháp đầu tiên của nước VNDCCH ngày
9/11/1946 có ghi tại Điều 10: "Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn
luận - Tự do tổ chức và hội họp - Tự do tín ngưỡng - Tự do cư trú, đi
lại trong nước và ra nước ngoài".
- Sắc Lệnh Luật số 102-SL/L-004 Quy định quyền
lập hội do Chủ tịch Nước VNDCCH ban hành ngày 20/5/1957. "Quyền lập
hội" ghi trong Sắc Lệnh Luật số 102-SL/L-004 (sau đây gọi là Sắc lệnh 102
năm 1957) chính là "Quyền tự do tổ chức" ghi trong Hiến pháp đầu tiên
1946.
- Hiến pháp tiếp theo của VNDCCH ngày
31/12/1959 cũng gọi là "Quyền tự do lập hội" giống như trong Sắc lệnh
102 năm 1957 khi quy định tại Điều 25 rằng: "Công dân nước VNDCCH có
các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu
tình. Nhà nước đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được
hưởng các quyền đó".
-
Hiến pháp nước CHXHCNVN ngày 18/12/1980 cũng quy định "quyền tự do lập
hội" tại Điều 67.
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị 1966 mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 quy định "quyền tự do
lập hội" tại Điều 22.
- Hiến pháp nước CHXHCNVN ngày 15/4/1992
(sửa đổi bổ sung 2001) cũng quy định tại Điều 69: "công dân có quyền lập
hội theo quy định của pháp luật".
- Bộ luật hình sự 1999, Điều 129:
"Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân".
- Nghị
định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 Quy định về tổ chức, hoạt
động và quản lý hội.
- Nghị định của Chính phủ số
45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội -
thay thế Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003.
- Hiến pháp nước CHXHCNVN ngày 28/11/2013
cũng quy định tại Điều 25: "Công dân có quyền... lập hội...".
Như vậy, căn cứ vào Hiến pháp 1946, Hiến
pháp 1959 và Sắc lệnh 102 năm 1957 thì "Quyền tự do tổ chức" còn được
gọi là "Quyền tự do lập hội"; và một "tổ chức" cũng được
gọi là một "hội".
Để có thể hiểu và đánh giá đúng về Sắc
lệnh 102 năm 1957 xin được trích dẫn một số điều luật chủ yếu trong tổng
cộng 12 điều của Sắc lệnh này:
"Điều 1. Quyền lập hội của nhân
dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù
hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân của nước ta.
Điều 3. Để bảo đảm việc
lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập
hội phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định.
Điều 4. Những hội đã
thành lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm bị chiếm
trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại.
Điều 7. Người nào xâm
phạm đến quyền lập hội hoặc đến quyền tự do vào hội, ra hội của người khác có
thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước tòa án và bị xử phạt tù từ một tháng đến
một năm.
Điều 9. Các đoàn thể
dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong
thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi
quy định của luật này.
Điều 10. Các hội có mục
đích kinh tế không thuộc phạm vi quy định của luật này".
Xin nêu một số nhận xét về Sắc lệnh 102
năm 1957 như sau:
- Tại Điều 1 của Sắc lệnh không nêu ra
một định nghĩa rõ ràng và đầy đủ về các đối tượng và phạm vi điều chỉnh mà chỉ
quy định rằng lập hội phải có mục đích và mục đích được mô tả chỉ có
tính chất chính trị là: "Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù
hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân của nước ta" ? Quy định hội chỉ có mục đích
chính trị như Điều 1 là không được đầy đủ, bởi vì trong pháp luật dân sự - như
tại Điều 110 Bộ luật Dân sự ngày 28/10/1995, đã phân loại "hội" hay
"tổ chức" là căn cứ vào nhiều loại mục đích khác nhau như là: chính
trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp, từ thiện... hoặc có mục đích hỗn hợp như: xã
hội - nghề nghiệp, chính trị - xã hội, chính trị - xã hội nghề nghiệp. Tuy
nhiên, quy định thiếu sót tại Điều 1 như thế chứng tỏ Sắc lệnh 102 năm 1957 (có
tất cả 12 điều) có chủ đích áp dụng cho những "tổ chức chính trị",
"đảng phái chính trị" đã hoạt động trước khi Sắc lệnh này ban hành vì
Sắc lệnh này buộc những đảng phái chính trị đó "đều phải xin phép
lại" theo Điều 4. Đồng thời, Sắc lệnh này cũng áp dụng cho những "tổ
chức chính trị", "đảng phái chính trị" sẽ được thành lập trong
tương lai sau khi Chính phủ ban hành "Thể lệ lập hội" như đã ghi tại
điều 3.
- Liệt kê tên 19 liên minh và đảng phái
chính trị Việt Nam vào thời kỳ trước khi có Sắc lệnh số 102 năm 1957 (1945 -
1954) như sau: - Đảng Lao động Việt Nam - Việt Nam Quốc dân Đảng - Đại Việt
Quốc dân Đảng - Đảng Xã hội Việt Nam - Đảng Dân chủ Việt Nam - Việt Nam Độc lập
Đồng minh Hội - Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội - Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng
- Đảng Dân chủ An Nam - Liên minh Dân chủ - Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam -
Bảo hoàng chính đảng - Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp - Tân Việt Nam
Đảng - Liên đoàn Công giáo Việt Nam - Việt Nam Quốc gia Liên hiệp - Việt Nam
Phục quốc Đồng minh Hội - Mặt trận Quốc gia Liên hiệp - Việt Nam Dân chúng Liên
đoàn (2). Như vậy, một "tổ chức chính trị", trước năm 1957, có
thể mang những tên khác nhau như: Đảng, Hội, Mặt trận, Liên đoàn, Liên minh,
Liên hiệp ... Và "các tên gọi khác nhau" đó cũng được giải thích tại
Khoản 2 Điều 2 Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định
về tổ chức, hoạt động và quản lý hội rằng: "Hội có các tên gọi khác
nhau: liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp
nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung
là hội)". Trong Nghị định Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003
này cũng có ý tránh, không sử dụng tên gọi "đảng chính trị" hay
"tổ chức chính trị" nhưng tại Điều 4 của Nghị định này có ghi tại
Khoản 2 rằng: "Hội được công nhận là tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, hội có hoạt động gắn với nhiệm
vụ của Nhà nước được ngân sách nhà nước hổ trợ theo quy định của Thủ tướng
Chính phủ". Như vậy, tổng hợp các quy định trong các Hiến pháp 1946,
1959, Sắc lệnh 102 năm 1957, Nghị định Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày
30/7/2003 và cả Bộ luật Dân sự 1995 mà Nghị định 88/2003 dùng làm căn cứ thì
các tổ chức chính trị hay các đảng phái chính trị là những đối
tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Sắc lệnh 102 năm 1957.
- Thực tế sau khi ban hành Sắc lệnh 102
năm 1957 thì trong số 19 liên minh và đảng phái chính trị VN đang hoạt động có
16 đảng phái chính trị không thể "xin phép lại" được theo quy định
của Điều 4. Còn người dân muốn lập hội mới thì "phải xin phép" và
phải chờ "Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định" như đã ghi tại
Điều 3. Thế nhưng công dân VN phải chờ thêm 46 năm tính từ ngày có Sắc lệnh
này, Chính phủ mới ban hành "Thể lệ lập hội" bằng Nghị định Chính phủ
số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
Riêng 3 đảng chính trị là Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi Đảng CSVN từ năm
1951), Đảng Dân Chủ VN và Đảng Xã Hội VN do nằm trong Việt Minh và Mặt trận
Liên Việt - tức Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, nên 3
đảng này vẫn tiếp tục hoạt động theo quy định tại điều 9 của Sắc lệnh này. Tuy
nhiên, đến Hiến Pháp ngày 18/12/1980 của nước VN thống nhất là CHXHCNVN đã quy
định tại điều 4: "Đảng Cộng sản Việt Nam,.....là lực lượng duy nhất
lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội ..." khiến dẫn đến hệ quả vào năm
1988 cả 2 Đảng Dân Chủ VN và Đảng Xã Hội VN đều tuyên bố "giải thể".
Rất dễ nhận ra với quy định tại điều 4 của Hiến pháp 1980 rằng "Đảng
Cộng sản Việt Nam ... là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo
xã hội..." đã trực tiếp xâm phạm đến "quyền tự do tổ chức"
trong Hiến pháp 1946, xâm phạm "quyền tự do lập hội" trong Hiến pháp
1959 và Hiến pháp 1980, đồng thời tạo ra sự mâu thuẫn và xung đột pháp lý giữa
"quyền tự do lập hội" bao gồm nhiều đảng khác nhau và Đảng CSVN là
"lực lượng duy nhất" ngay trong Hiến pháp 1980. Đến Hiến pháp 1992,
Quốc hội đã xóa bỏ 2 từ "duy nhất" tại Điều 4 nên Đảng CSVN
không còn là "lực lượng duy nhất" nữa và như thế là mặc nhiên xóa bỏ
chế độ "độc đảng" và tái công nhận "quyền tự do tổ chức", "quyền
tự do lập hội" trong tất cả các Hiến pháp trước đó và trong Sắc lệnh 102
năm 1957. Nếu một đảng chính trị nhận được sự tín nhiệm và ủng hộ của nhân dân
hoặc của quốc hội tùy theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì đảng đó sẽ
nắm giữ vai trò là đảng cầm quyền, là "lực lượng lãnh đạo đất nước,
lãnh đạo xã hội". Sắc lệnh 102 năm 1957 được ban hành chính là để áp
dụng cho nhiều đảng phái chính trị (đa đảng) đang hoạt động và sẽ được thành
lập trong tương lai. Không có điều khoản nào trong Sắc lệnh này thể hiện rằng
Sắc lệnh được làm ra là chỉ dành cho một đối tượng, một đảng "duy
nhất" cụ thể nào. Khi Sắc lệnh 102 năm 1957 ghi tại Điều 3 rằng "Thể
lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định" là đã xác định đối tượng xin lập
hội mới bao gồm nhiếu đảng phái chính trị khác trong tương lai chứ không phải
chỉ có 3 đảng là Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam và Đảng Dân chủ
Việt Nam là những đảng chính trị được miễn "xin phép lại" như quy
định tại Điều 9.
Vậy, vào thời điểm hiện tại (2014),
một "tổ chức chính trị" hay một "đảng chính trị" có phải là
đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Sắc lệnh 102 năm 1957 và Nghị định Chính
phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 hay không ? Câu trả lời đã được thể hiện
ngay tại Điều 4 của Sắc lệnh: "Những hội đã thành lập trước ngày ban
hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng
chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại." Hệ
quả là có 19 đảng phái chính trị hoạt động trước 1957 phải xin phép lại nhưng
đã có 16 đảng phái đã bị xóa tên vì không vượt qua được quyền cấp phép của cơ
quan thẩm quyền. Còn những ai muốn lập hội mới tức các đảng phái chính trị mới
thì phải xin phép theo "Thể lệ lập hội" sẽ do Chính phủ quy định như
đã ghi tại điều 3: "Để bảo đảm việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo
vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ
do Chính phủ quy định". Tức là, những đảng phái chính trị đã
hoạt động trước ngày ban hành Sắc lệnh 102 năm 1957 hoặc sẽ thành lập mới sau
khi Chính phủ ban hành "Thể lệ lập hội" đều là những đối tượng áp
dụng Sắc lệnh này. Nghị định Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày
30/7/2003 chính là "Thể lệ lập hội" được quy định trong
Sắc lệnh 102 năm 1957 khi ghi rõ ở phần đầu Nghị định là: "Căn cứ Sắc
lệnh số 102/SL-L004 ngày 20/5/1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội"
và "Căn cứ Bộ Luật Dân Sự ngày 28/10/1995".
Tuy nhiên, các công dân Việt Nam muốn
thành lập một hội có mục đích chính trị đã phải bối rối khi đọc "Thể lệ
lập hội" được Chính phủ ban hành bằng Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày
30/7/2003 với định nghĩa về hội tại Điều 2 khoản 1 như sau: "Hội được
quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ
chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết
hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của hội viên; hổ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định
này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan". Đây là một
định nghĩa được tác giả cố ý sử dụng câu chữ rối rắm, đánh đố người đọc, khiến
cho người đọc dễ hiểu sai rằng "hội" trong Nghị định này không bao
gồm "tổ chức chính trị"; hoặc hiểu sai rằng Nghị định này không bao
gồm các "đảng chính trị" vốn là đối tượng áp dụng của Sắc lệnh 102
năm 1957. Rồi đến khi Chính phủ ban hành tiếp Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày
21/4/2010 để thay thế Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 thì định nghĩa
về hội vẫn giữ nguyên, chỉ bổ sung những chi tiết không quan trọng (được gạch
đít) như sau: "Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ
chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng
giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên,
không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của
cộng đồng; hổ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan".
Tóm
lại, từ năm 1945 đến 2014, dưới chính thể VNDCCH và CHXHCNVN đã có 5 bản Hiến
pháp được ban hành và trong mỗi bản Hiến pháp đều có quy định quyền tự do lập
hội của công dân VN. Nhưng từ sau khi Sắc lệnh 102 năm 1957 ban hành thì kết
quả của việc thi hành Sắc lệnh này là đã xóa bỏ tất cả những đảng phái chính
trị đang hoạt động vì những tổ chức này đã không được chính quyền cấp phép lại
- chỉ có 3 đảng là Đảng LĐVN cầm quyền, Đảng XHVN và Đảng DCVN còn tiếp tục
hoạt động. Đến năm 1988, Đảng DCVN và Đảng XHVN tiếp tục giải thể, chỉ còn lại
duy nhất đảng cầm quyền là Đảng CSVN. Tuy việc ban hành Sắc lệnh 102 năm 1957
đã xóa bỏ các đảng phái chính trị đối lập với đảng cầm quyền nhưng mãi đến năm
2003 Chính phủ mới ban hành "Thể lệ lập hội" bằng Nghị định số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 để các công dân VN có điều kiện tiến hành các thủ
tục xin thành lập hội là đảng chính trị mới theo quy định của Sắc lệnh 102 năm
1957 và của 5 bản Hiến pháp. Tuy nhiên, cho đến nay, trong thực tế vẫn chưa
thấy có một đảng chính trị nào nộp đơn xin phép thành lập (?). Câu hỏi tại sao
xin được để ngỏ.
2/
Quyền lập hội trong khuôn khổ pháp luật dưới chính thể Quốc gia Việt Nam và
Việt Nam Cộng Hòa (1948 - 1975):
Quyền
lập hội của công dân được ấn định trong Dụ số 10 ngày 6/8/1950 (sau đây gọi là
Dụ số 10 năm 1950) do Quốc trưởng Bảo Đại ban hành. Đến ngày 19/11/1950
Dụ số 24 được ban hành để sửa đổi bổ sung Dụ số 10. Dụ số 10 ngày 6/8/1950 được
áp dụng dưới chính thể Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hoà cho đến ngày
30/4/1975. Xin trích dẫn quy định của Điều 1 trong Dụ số 10 đã đưa ra một định
nghĩa về hội rất rõ ràng, dễ hiểu:
"Điều 1- Hội là Hiệp ước của hai
hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để
theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích thuộc về tế
tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu
khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu.
Muốn có hiệu lực thì
hội nào cũng phải hợp với nguyên tắc chung của pháp luật về khế ước và nghĩa
vụ".
Trong
thời gian áp dụng Dụ số 10 từ 1950 đến 1975 đã có 16 đảng phái chính trị hoạt
động như sau: - Đảng Phục hưng - Đảng Dân chủ Nam Việt Nam - Đảng Xã hội Cấp
tiến Miền Nam Việt Nam - Cần lao Nhân vị Cách mạng Đảng - Việt Nam Dân chủ Xã
hội Đảng - Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam - Đại Việt Quốc dân
Đảng - Đảng Tân Đại Việt - Đại Việt Cách mạng Đảng - Phong trào Quốc gia Cấp
tiến - Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam - Phong
trào Quốc gia Tiến bộ - Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam - Mặt trận Quốc gia
Dân chủ Xã hội - Đảng Công Nông Việt Nam - FULRO (3).
Như vậy, trong phần định nghĩa của Dụ số
10 năm 1950 dưới chính thể Quốc gia Việt Nam cũng lấy mục đích theo đuổi
khác nhau của các tổ chức để phân loại các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh
của Dụ, tương tự như Sắc lệnh 102 năm 1947 của chính thể VNDCCH và Nghị định số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 dưới chính thể CHXHCNVN.
II. Hội Hướng Đạo Việt Nam được thành
lập, hoạt động và tồn tại như thế nào dưới các chính thể ở Việt Nam ?:
1/ Hội HĐVN dưới chính thể VNDCCH
và CHXHCNVN (gọi là Hội HĐVN 1946):
Sau khi Việt Nam giành được độc lập từ
thực dân Pháp năm 1945 thì một "Hội Hướng Đạo Việt Nam không
hoạt động và cổ động về mặt chính trị. Hội HĐVN không giới hạn trong thời
gian" được thành lập để "Thay và thống nhất ba hội Hướng Đạo
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ ... với mục đích huấn luyện thanh niên về ba phương
diện: đức, thể, thực theo tôn chỉ và phương pháp..." - về sau được
gọi là "phương pháp Hướng Đạo" (4). Hội HĐVN được
Chính phủ VNDCCH chính thức công nhận khi Điều lệ (Quy trình) của hội được
duyệt y ngày 7/2/1946 do ông Đổng Lý văn phòng Bộ Nội vụ Chính phủ VNDCCH Hoàng
Minh Giám ký. Ngày 31/5/1946 Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Hồ Chí Minh gởi thư
cho Hội trưởng Hội HĐVN báo tin nhận làm DANH DỰ HỘI TRƯỞNG Hội HĐVN.
Hiến pháp đầu tiên của nước VNDCCH ngày
9/11/1946 đã bảo hộ quyền lập hội của các HĐS Hội HĐVN tại Điều 10: "Công
dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận - Tự do tổ chức và hội họp - Tự
do tín ngưỡng - Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài". Đến
ngày 20/5/1957, Chủ tịch Nước VNDCCH đã ban hành Sắc lệnh số 102 Quy định quyền
lập hội. Tại Điều 4 của Sắc lệnh ghi rõ: "Những hội đã thành lập trước
ngày ban hành luật này và hoạt động trong vùng bị tạm chiếm trong thời kỳ kháng
chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại".
Hội HĐVN được thành lập và hoạt động hợp pháp dưới chính thể VNDCCH, có Chủ
tịch Chính phủ Việt Nam Hồ Chí Minh làm DANH DỰ HỘI TRƯỞNG nên đã không
"phải xin phép lại" sau ngày ban hành Sắc lệnh.
Cũng
vào năm 1957, Hội HĐVN đã cùng với 3 tổ chức khác là Đoàn Thanh niên CS Hồ Chí
Minh, Hội Sinh viên Việt Nam và Hội Học sinh Việt Nam thành lập Hội Liên hiệp
Thanh niên Việt Nam (Hội LHTNVN) với tư cách là "Thành viên tập thể của
Hội LHTN". Là "Thành viên tập thể của Hội LHTNVN", Hội HĐVN đã
thảo luận, đề nghị các vấn đề về hoạt động của Hội LHTNVN, giới thiệu đại diện
của Hội HĐVN vào Ủy ban Hội LHTNVN các cấp ... trong cả 2 Đại hội toàn quốc Hội
LHTNVN (lần thứ 1) năm 1957 và tiếp theo Đại hội toàn quốc Hội LHTNVN (lần thứ
2) năm 1961. Hiện nay, các huynh trưởng Hội HĐVN vẫn còn lưu giữ 2 thẻ đại biểu
của huynh trưởng Phạm Ngọc Try là đại biểu của Hội HĐVN tham dự 2 lần đại hội
nói trên của Hội LHTNVN (5). Ngoài ra, các huynh trưởng Hội HĐVN vẫn còn lưu
giữ một văn bản ghi ngày 5/2/1965 có đóng dấu đỏ của Bộ Tổng ủy viên Hội HĐVN
1946 (ở miền Bắc) gởi cho các anh chị huynh trưởng và các Tráng, Thiếu, Ấu là
Hướng Đạo sinh Trung, Nam bộ thuộc Hội HĐVN ở miền Nam (6). Các chứng cứ còn
lưu giữ này cùng với "Danh sách 220 Hướng Đạo sinh đã tham gia Cách
Mạng và có những nhiệm vụ quan trọng trong các lĩnh vực Đảng, quân đội và các
ngành khác từ 1945 đến nay" (7), đã chứng minh một cách thuyết phục
rằng: Một Hội HĐVN đầu tiên được thành lập trong khuôn khổ pháp luật dưới chính
thể VNDCCH và đã hoạt động liên tục từ ngày thành lập 7/2/1946 cho đến ít nhất
là ngày 5/2/1965.
Sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975,
các huynh trưởng thuộc Hội HĐVN thành lập năm 1946 (ở miền Bắc VN) mà hầu hết
là các đảng viên CS đã cùng với các huynh trưởng Hội HĐVN thành lập năm 1953 (ở
miền Nam VN) gởi khoảng trên 10 đơn, thư, kiến nghị đến các vị lãnh đạo Đảng CS
và Nhà nước VN để vận động, xin phép tái lập Hội HĐVN nhưng đều không nhận được
trả lời nào từ các cấp lãnh đạo. Xin được liệt kê các đơn, thư, kiến nghị đó:
- Trưởng Trần Hữu Khuê đã gởi đến các vị
lãnh đạo Đảng, Quốc hội và Nhà nước tổng cộng 6 văn bản vào các ngày:
18/11/1988, 6/4/1989, 14/10/1992, 28/3/1996, 8/8/1997, 1/7/2000.
- Trưởng Nguyễn Dực thay mặt 20 Trưởng
Hướng đạo gởi đơn ngày 3/3/1993
- Trưởng Bạch Văn Quế gởi thư ngày
22/4/1997
- Trưởng Nguyễn Phước Hoàng (Tôn Thất
Hoàng) gởi thư ngày 18/8/1997
- Trưởng Nguyễn Phúc Quỳnh Hòe gởi thư
ngày 18/3/2000.
Đặc biệt là trong bài nghiên cứu có tựa
"Lịch sử Phong trào Hướng Đạo Việt Nam" của Trưởng Lê Duy Thước ghi
ngày 31/05/1996 đã ghi lại sự kiện các huynh trưởng của 2 Hội HĐVN ở 2 miền
Nam, Bắc VN đã cùng nhau thành lập một Ban Liên lạc HĐVN như sau: "Năm
1991, Anh Hoàng Đạo Thúy ( là người đã cùng với Tr. Trần Văn Khắc sáng lập
Hội HĐVN) ký giấy ủy nhiệm cho 21 huynh trưởng Hướng Đạo cũ, lập thành Ban
Liên lac Lâm thời Hướng Đạo Việt Nam (Trưởng ban Nguyễn Dực, thư ký Lê Duy
Thước).Tháng 12/1991, Ban LLLT HĐVN tổ chức họp mặt truyền thống, có hơn 200
Anh Chị Em Hướng Đạo cũ đến dự. Họp ở hội trường lớn Viện Bào tàng Hồ Chí Minh
sáng 19/12/1991.... Tháng 05/1993, Ban Liên lạc LT HĐVN lại tổ chức cuộc họp
Truyền thống Hướng Đạo ở Đình Làng Đại Yên (Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội), có hơn
300 Hướng Đạo cũ về dự, trong số có gần 40 Anh Chị Em Cựu Hướng Đạo hoạt động ở
miền Trung và miền Nam..." (8).
Tại sao tổ chức Đảng CSVN và cơ quan Nhà
nước VN không quan tâm trả lời các đơn, thư, kiến nghị xin tái lập hội của các
huynh trưởng Hội HĐVN ? Sự im lặng của tổ chức Đảng CSVN và cơ quan Nhà nước VN
như thể xác nhận những lời nói lờ mờ rằng Hội HĐVN 1946 bị "ngừng hoạt
động" là do "ý ở trên" (?). Mãi đến khi Nghị định của Chính phủ
số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội
được ban hành thì các huynh trưởng Hội HĐVN mới vui mừng chào đón cơ hội tái
lập Hội HĐVN. Sau 46 năm kể từ ngày có Sắc lệnh 102 năm 1957, nay Chính phủ mới
ban hành "Thể lệ lập hội", mà theo đó quyền thành lập Hội HĐVN của
các huynh trưởng đã có được cơ sở pháp lý để tiến hành thủ tục tái lập Hội
HĐVN, thực hiện quyền công dân của mình theo các quy định của pháp luật chớ
không phải làm những bản "kiến nghị" xin xỏ gởi các cấp lãnh đạo như
trước.
2/ Hội HĐVN dưới chính thể Quốc gia
Việt Nam và VNCH (gọi là Hội HĐVN 1953):
Hội HĐVN được thành lập dưới chính thể
Quốc gia Việt Nam bằng một Nghị định riêng có tên "Nghị định số
326-NĐ/TN ngày 9/2/1953 của ông Bộ Trưởng Bộ Thanh niên và Thể thao"
là Vũ Hồng Khanh ký tên, đã "Chiếu Dụ số 10 ngày 6/8/1950, ấn định thể
lệ lập hội", "Chiếu Dụ số 24 ngày 19/11/1952, sửa đổi Dụ số 10
ngày 6/8/1950" và "Chiếu đơn số 003-HT-HĐ ngày 12/6/1952 của
ông Hội trưởng Hướng Đạo Việt Nam" để ban hành Nghị định này và có ghi
rõ tại Điều thứ nhất là "Hội HĐVN được phép hoạt động trên toàn lãnh
thổ Việt Nam, theo bản điều lệ đính kèm theo nghị định này". Chính Hội
HĐVN thứ hai được thành lập ngày 9/2/1953 dưới chính thể Quốc gia Việt Nam đã
gia nhập WOSM và được công nhận là một Tổ chức Hội viên của WOSM vào năm 1957.
Hội HĐVN 1953 này đã có điều kiện phát
triển ổn định cho đến năm 1975. Trong quãng thời gian đó Hội HĐVN 1953 tuy đã
sửa đổi Điều lệ (Quy trình) vào các năm 1959, năm 1962 và năm 1967 nhưng vẫn
giữ nguyên là một tổ chức xã hội có "mục đích giáo dục thanh thiếu nhi
trong toàn cõi VN về ba phương diện: đức, thể, thực theo tôn chỉ và phương pháp
Hướng Đạo", "không phân biệt tôn giáo, chủng tộc và quốc tịch",
"không hoạt động và cổ động chính trị". Tính đến ngày 31/12/1974,
Hội HĐVN 1953 có tổng số đoàn sinh và huynh trưởng đóng bảo hiểm là 14.432
người, trong đó có 2.204 huynh trưởng. Do "phương pháp Hướng Đạo" có
tính chất rất đặc biệt, còn gọi là "phương pháp hàng đội tự quản" -
bao gồm các nhóm nhỏ tự quản dưới sự hướng dẫn của huynh trưởng, nên không thể
phát triển số lượng đoàn sinh nếu không có đủ huynh trưởng phụ trách. Vì vậy,
dù được hoạt động tự do, Hội HĐVN 1953 sau 22 năm, cũng chỉ có thể phát triển
tối đa là trên 12.000 đoàn sinh trên toàn miền Nam VN mà thôi. Con số này là
quá ít nếu so sánh với số lượng đoàn viên Đoàn Thanh niên CS Hồ Chí Minh hiện
nay và không tính đến số lượng các em trong Đội Thiếu niên Tiền Phong HCM: "Theo
báo cáo của Đại hội toàn quốc lần thứ VIII Đoàn TNCS HCM (2007) thì tại VN hiện
có khoảng 6,1 triệu đoàn viên. Theo BBC thì tại Tp.HCM, thành phố lớn nhất VN,
vào năm 2005 có khoảng 70% thanh niên đang đứng ngoài hàng ngũ Đoàn TNCS
(khoảng 390.000 đoàn viên trên tổng số 2,3 triệu người từ độ tuổi 16 đến
30)" (9). Cũng vào năm 2006, trên toàn VN, ước tính có khoảng trên 4.000
đoàn sinh và huynh trưởng HĐVN đang sinh hoạt nhưng phần lớn tập trung ở
Tp.HCM.
Do quyền tự do lập hội được quy định rất
rõ ràng trong Dụ số 10 năm 1950 và được thực thi trong thực tế nên hoạt động
của Hội HĐVN 1953 đã tạo được tiếng vang là một phong trào có mục đích giáo dục
thanh thiếu nhi bằng "hình thức và phương pháp Hướng Đạo" rất đăc
biệt, bổ sung cho giáo dục gia đình và giáo dục học đường, rèn luyện các em trở
thành những đứa con tốt, những học trò tốt và những công dân tốt. Những Hướng
Đạo sinh khi trưởng thành đã tham gia hoạt động chính trị trong các đảng phái
với tư cách công dân - tương tự như các HĐS là đảng viên Đảng CSVN dưới chính
thể ở miền Bắc. Tiếng tốt do hoạt động của Hội HĐVN đã khiến cho các tổ chức
tôn giáo và các lực lượng quân đội, cảnh sát ở miền Nam cũng muốn xây dựng một
tổ chức tương tự, áp dụng "hình thức và phương pháp Hướng Đạo" để
giáo dục cho con em trong tổ chức, lực lượng của mình có được những phẩm chất
tốt đẹp như các Hướng Đạo sinh trong Hội HĐVN. Có thể nêu ra một số tổ chức,
lực lượng như sau:
- Gia đình Phật tử: Do thời điểm
xuất hiện của Gia đình Phật tử với hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục có
nhiều điểm tương tự như của Hội HĐVN khiến cho nhiều người cho rằng Hội HĐVN là
mô hình giáo dục thanh thiếu nhi đã được chuyển hóa thành Gia đình Phật tử. Vào
những ngày 24, 25, 26/4/1951, tại Thuận Hóa -Huế, Đại hội Gia đình Phật
hóa Phổ họp tại chùa Từ Đàm gồm đại biểu của 9 tỉnh miền Trung gồm Thừa Thiên,
Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Lâm Viên, Bình Thuận, Dran, Đồng Nai
Thượng và Hà Nội, Hải Phòng. Tại Đại hội này, tên "Gia đình Phật tử Việt
Nam" được thay cho Gia đình Phật hóa Phổ và một bản Nội quy cũng được ra
đời từ đây. Qua 9 lần đại hội từ 1951 - 1973 Gia đình Phật tử VN đã từng bước
trưởng thành trong lòng các Giáo hội đương nhiệm, Từ 4 Gia đình Phật hóa Phổ
đầu tiên tại Huế, lên đến 812 Gia đình Phật tử thuộc 48 tỉnh, thành tại miền
Nam, với 7.200 huynh trưởng và 72.600 đoàn sinh (theo báo cáo của Đại hội năm
1973 tại Đà Nẵng). Cuộc họp lịch sử ngày 19/10/1997 tại Thiền viện Vạn Hạnh
(Tp.HCM) ra đời một bản thông báo có chữ ký của Hòa thượng Thích Minh Châu và 4
huynh trưởng cấp Dũng gởi đến toàn thể huynh trưởng và đoàn sinh GĐPTVN đề nghị
tu chỉnh một số điều trong Nội quy và Quy chế huynh trưởng của GĐPT cho phù hợp
với Hiến chương của Giáo hội PGVN. Cũng trong năm này, Đại hội Phật giáo toàn
quốc lần thứ IV diễn ra tại Hà Nội, GĐPTVN được chính thức công nhận, ghi vào
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Chương V Điều 19, nay là Điều 21). Năm
1998, GHPGVN thành lập các Ban Hướng dẫn Phật tử từ Trung ương đến các tỉnh,
thành. Ngành Cư sĩ Phật tử do Chư Tăng trực tiếp lãnh đạo, ngành Gia đình Phật
tử do Huynh trưởng điều hành theo chủ trương, đường lối của Giáo hội Phật giáo
VN (10).
Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP
ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội có ghi rõ tại Điều
1, Khoản 1, điểm b rằng "Nghị định này không áp dụng với các tổ chức: -
Các tổ chức giáo hội". Tức là các tổ chức thuộc Giáo hội Phật giáo VN
như Gia đình Phật tử và Tịnh dộ Cư sĩ không là đối tượng thuộc phạm vi điều
chỉnh của Nghị định, không cần phải xin phép theo thủ tục thành lập hội của
Nghị định này.
- Hướng Đạo Công Giáo, Hướng Đạo Cao
Đài, Hướng Đạo Tin Lành: Về mặt pháp lý, một "tổ chức" theo quy
định của pháp luật dân sự chỉ được công nhận là có tư cách pháp nhân khi có đủ
các điều kiện: - Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành
lập, đăng ký hoặc công nhận; - Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; Có tài sản độc lập
với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; - Nhân danh
mình tham gia các quan hệ pháp luật ( tham chiếu Điều 94 BLDS 1995). Theo đó,
dưới chính thể ở miền Nam VN từ 1948 đến 1975, chỉ có duy nhất một Hội HĐVN 1953
có tư cách pháp nhân được pháp luật Quốc gia Việt Nam công nhận và được WOSM
công nhận tư cách hội viên từ năm 1957. Trong các bản Điều lệ (Quy trình) của
Hội HĐVN năm 1953, được sửa đổi năm 1959, năm 1962 và năm 1967 đều có quy định
"không phân biệt tôn giáo". Trong tất cả các bản Điều lệ đó đều có
một điều khoản ghi: "Hội lấy tên chánh thức là Hội "HƯỚNG ĐẠO VIỆT
NAM" viết tắt là "H.Đ.V.N" những chữ "HƯỚNG-ĐẠO" trong
tên này thuộc sở hữu tuyệt đối của Hội". Và trong tất cả các bản Điều lệ
của Hội HĐVN 1953 đều không có một dòng hay một chữ nào về "Hướng Đạo Công
Giáo", "Hướng Đạo Cao Đài", "Hướng Đạo Tin lành". Do
đó không có mối liên hệ hoặc mối tương quan pháp lý nào giữa Hội HĐVN 1953 với
các tổ chức thuộc các tôn giáo này. Các tôn giáo này nếu tồn tại cái gọi là
Hướng Đạo trong thực tế thì đó là bộ phận thuộc về các giáo hội chủ quản chớ
không phải là một bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức của Hội HĐVN 1953. Giữa Hội HĐVN
1953 và các Giáo hội Công giáo, Giáo hội Cao Đài, Giáo hội Tin Lành cũng không
hề có một thỏa hiệp gì để xác lập mối liên hệ giữa một tổ chức xã hội có tư
cách pháp nhân là Hội HĐVN và các Giáo hội đó. Việc các cá nhân hoặc tổ chức
nào đó tự xưng là "Hướng Đạo" + "Tôn giáo" là ngoài phạm vi
trách nhiệm pháp lý của Hội HĐVN 1953.
Xin được lưu ý một vấn đề liên quan như
sau: Điều lệ của Hội HĐVN 1953 quy định là "không phân biệt tôn giáo"
nên chỉ coi các huynh trưởng và đoàn sinh là "Hướng Đạo sinh theo Phật
giáo", "HĐS theo Công giáo", "HĐS theo Tin lành",
"HĐS theo Cao Đài"... và tất cả các hội viên của Hội HĐVN đều sinh
hoạt chung với nhau theo cơ cấu tổ chức đã được quy định trong bản Điều lệ chớ
không hề phân biệt tôn giáo, không tách riêng từng đơn vị, bộ phận gọi là
"Hướng Đạo Công giáo", "Hướng Đạo Tin lành", "Hướng
Đạo Cao đài".v.v... Thế nhưng, trong 3 tôn giáo nêu trên chỉ có Giáo hội
Công giáo là có công bố một bản "Quy chế Hướng Đạo Công giáo Việt
Nam" (viết tắt HĐCGVN) được Tổng Giám mục Phaolồ Nguyễn Văn Bình phê chuẩn
và ban phép thi hành ở Sài Gòn ngày 8/1/1965. Bản Quy chế HĐCGVN này cũng xác
định mục đích giáo dục bằng "phương pháp Hướng Đạo" nhưng lại xác
định thêm tôn chỉ "Phụng sự Thiên Chúa và Giáo hội" và HĐCGVN là hội
đoàn phụ tá đứng trong Tổ chức Công giáo Tiến hành. Bản Quy chế HĐCGVN đã không
tự xây dựng cho mình một cơ cấu tổ chức có hệ thống riêng với lực lượng huynh
trưởng và đoàn sinh riêng như bản Nội quy Gia đình Phật tử của Giáo hội Phật
giáo VN mà lại tự xác lập cho mình quyền "can thiệp" vào một tổ chức
xã hội có tư cách pháp nhân và có bản Điều lệ được chính quyền phê duyệt là Hội
HĐVN, lấy lực lượng đoàn sinh và huynh trưởng có sẵn trong Hội HĐVN làm lực
lượng của mình. Xin dẫn chứng từ bản Quy chế HĐCGVN hành vi "vượt quá khôn
khổ pháp luật" của Giáo hội Công giáo VN khi ban hành Quy chế đơn phương "chiếm
hữu" lực lượng đoàn sinh của Hội HĐVN 1953 mà không dựa trên một căn cứ
pháp lý nào cả. Đó là việc trong Quy chế HĐCGVN đã cho mình quyền thành lập các
"Đạo" và "Đơn vị" HĐCG từ các đoàn sinh và huynh trưởng
đang có sẵn trong Hội HĐVN 1953 khi quy định rằng: "Đạo: Tại mỗi tỉnh
hay thành phố lớn, nếu có đủ đơn vị HĐCG hoặc Nam hoặc Nữ, Văn phòng Trung ương
sẽ can thiệp với Bộ Tổng ủy viên của Hội liên quan, để thành lập một Đạo
riêng cho HĐCG"; và ..."Đơn vị có thể thâu nhận các HĐS ngoài
Công giáo, miễn là có sự đồng ý của phụ huynh; các đoàn sinh này không buộc
phải dự các lễ nghi Công giáo cũng như các lớp huấn luyện Giáo lý. Số đoàn sinh
ngoài Công giáo không được vượt quá 2/5 tổng số. Dĩ nhiên Đơn vị trưởng
phải là Công giáo". Quy định như thế trong bản Quy chế HĐCGVN là đi
ngược với tôn chỉ "không phân biệt tôn giáo" trong bản Điều lệ Hội
HĐVN 1953 và giữa Giáo hội CGVN với Hội HĐVN 1953 cũng chưa từng ký kết một
thỏa hiệp gì về việc Hội HĐVN 1953 thừa nhận hay áp dụng bản Quy chế HĐCGVN.
Sau nữa, một quy định trong bản Quy chế HĐCGVN có tính chất xâm phạm quyền tự
quyết của Hội HĐVN là: "- Khi xảy ra trường hợp một trong hai Hội vi
phạm nguyên lý căn bản của Phong trào HĐ, nhất là điều thuộc về Tôn giáo; - Khi
xảy ra trường hợp những người lãnh đạo một trong hai Hội có thái độ kỳ thị rõ
rệt đối với Tôn giáo hoặc đối với các Trưởng Công giáo có khả năng tham gia Hội
đồng Trung ương hay Bộ Tổng ủy viên của Hội đó. Trong hai trường hợp này,
HĐCGVN sẽ bày tỏ lập trường và đưa đề nghị để Hội sửa chữa. Nếu không giải
quyết xong, lúc đó các đơn vị HĐCGVN sẽ buộc lòng phải tách khỏi
Hội". Một bản Quy chế do một tôn giáo ban hành lại tự xác lập cho mình
có quyền đơn phương định đoạt việc tách, nhập các đơn vị, việc phong nhậm những
trách vụ lãnh đạo của một tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân như Hội HĐVN
1953, bất chấp đến Điều lệ của hội và cả hệ thống pháp luật đương thời bảo hộ
quyền và lợi ích hợp pháp của hội đó, nghe ra không ổn, không "thượng tôn
pháp luật" chút nào (!). Hơn nữa, việc sử dụng giáo quyền để
"tách" các hội viên "khỏi" Hội HĐVN 1953 chẳng phải đã xâm
phạm đến quyền tự do lập hội mà trong đó bao gồm cả quyền tự do vào hội và
quyền tự do ra hội của công dân, thể hiện qua các quy định: "Hội viên
... có quyền ra khỏi hội bất cứ lúc nào" (Điều 3 Dụ số 10) và "Mọi
người có quyền tự do vào hội thành lập hợp pháp, và có quyền tự do ra hội.
Không ai được xâm phạm quyền lập hội và quyền tự do vào hội, ra hội của người
khác" (Điều 2 Sắc lệnh năm 1957) ? Dẫu sao, trong văn thư đề ngày
09/10/2003, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội đồng Giám Mục VN đã cho
biết "Chúng tôi đã chính thức đưa phong trào HĐCGVN vào hoạt động Công
Giáo Tiến Hành của Giáo Hội VN và Hội đồng Giám mục VN đã chính thức giới thiệu
hoạt động của HĐCG trong cuốn Giáo hội Công giáo VN Niên giám 2003 của Hội đồng
Giám mục VN". Như vậy, từ năm 2003, HĐCGVN đã có thể xây dựng cho mình
một cơ cấu, tổ chức riêng, có lực lượng đoàn sinh riêng do mình xây dựng tương
tự như Gia đình Phật tử VN. Và cũng tương tự như Gia đình Phật tử VN, HĐCGVN là
một hội đoàn phụ tá đứng trong Công giáo Tiến hành của Giáo hội Công giáo VN
nên không cần phải xin phép theo thủ tục thành lập hội trong Nghị định Chính
phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003.
- "Hướng Đạo Cảnh sát VN" và
"Hướng Đạo Quân đội VN": Lực lượng Cảnh sát và Quân đội dưới
chính thể VNCH cũng muốn áp dụng các "hình thức và phương pháp Hướng
Đạo" để giáo dục con em của họ nên sau năm 1968 đã tự thành lập tổ
chức "Hướng Đạo" + "Lực lượng" tương tự như trường hợp của
các tổ chức tôn giáo. Tất nhiên là với các quy định của pháp luật đương thời và
Điều lệ của Hội HĐVN 1953, không hề có mối liên hệ gì giữa Hội HĐVN 1953 vốn là
một tổ chức xã hội "phi chính trị" thể hiện trong Điều lệ hết sức
minh bạch, với các lực lượng vũ trang thuộc chính thể đó. Và tất nhiên, Hội
HĐVN 1953 cũng không thể làm gì được khi các lực lượng Cảnh sát và Quân đội
đương thời muốn sử dụng 2 từ "Hướng Đạo" ghép chung với tên gọi của
tổ chức do các lực lượng này lập ra, tương tự như với trường hợp các tôn giáo ở
VN.
III. Các văn bản của tổ chức Đảng CSVN
và cơ quan Nhà nước VN đã vượt ra ngoài khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, xâm
phạm quyền tự do lập hội của các HĐS Hội HĐVN như thế nào ?
1/ Các văn bản của tổ chức Đảng
CSVN:
a/ Thông báo số 143-TB/TW ngày
20/4/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng CSVN:
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, thì
các huynh trưởng của cả 2 Hội HĐVN 1946 ở miền Bắc và Hội HĐVN 1953 ở miền Nam
đều vui mừng chuẩn bị tiến hành thủ tục nộp đơn xin phép thành lập một Hội HĐVN
thống nhất trên cả nước. Nhưng trong khi các huynh trưởng HĐVN chưa kịp nộp đơn
xin thành lập hội thì ngày 20/4/2004 - tức là chưa tới 9 tháng sau ngày Chính
phủ ban hành Nghị định, Ban Bí thư Trung ương Đảng CSVN đã có văn bản số
143-TB/TW chỉ đạo các tổ chức Đảng CSVN và các cơ quan Nhà nước VN thực hiện
nhiều biện pháp ngăn cấm các "hoạt động hướng đạo" và "không đặt
vấn đề tái lập tổ chức hướng đạo, cũng như tránh lập thêm các hội, đoàn
mới". Xin trích dẫn nội dung chính yếu trong Thông báo 143-TB/TW ngày
20/4/2004 của Ban Bí thư TW như sau: "Hoạt động hướng đạo du nhập vào
VN từ đầu thế kỷ 20. Từ sau kháng chiến chống Pháp, ở miền Bắc tổ chức hướng
đạo đã ngừng hoạt động và gia nhập Hội Liên hiệp Thanh niên VN, trong khi ở
miền Nam hoạt động hướng đạo tiếp tục phát triển và phân hóa, ngoài tổ chức
hướng đạo chính thống, Mỹ ngụy xây dựng các loại hướng đạo trong tôn giáo, quân
đội, cảnh sát... Sau năm 1975 tất cả các tổ chức này mặc nhiên giải thể. Tuy
nhiên, những năm gần đây, phong trào hướng đạo VN nói chung và ở Tp.HCM nói
riêng đang tái phát triển một cách tự phát và diễn biến phức tạp. Có nhiều nhóm
tổ chức hướng đạo đang hoạt động, sinh hoạt ngày càng thường xuyên, có nền nếp,
bài bản và công khai hơn. Các nhóm hướng đạo tuy có sự khác nhau, thậm chí mâu
thuẫn về quan điểm và đường hướng hoạt động, nhưng đều mong muốn được Nhà nước
chính thức cho phép tái lập tổ chức hướng đạo; cả một số cán bộ, đảng viên
trước đây vốn là huynh trưởng hướng đạo cũng ủng hộ nguyện vọng này. Nhiều nhóm
đã liên tục gởi đơn xin phép chính quyền cho phép tái lập, mặt khác không ngừng
hoạt động ngầm để phát triển lực lượng một cách tự phát ngoài khuôn khổ pháp
luật, chuẩn bị chờ Nhà nước cho phép tái lập. Trong các nhóm hướng đạo nói
trên, ngoại trừ nhóm hướng đạo chính thống, các hệ phái hướng đạo khác ở Tp.
HCM hiện nay đều có gắn với tôn giáo, tâm linh, hoạt động có tính chính trị.
Nhiều tổ chức có quan hệ móc nối với các phần tử phản động và số cầm đầu các
nhóm hướng đạo ở hải ngoại và với tổ chức hướng đạo thế giới, với sứ quán, lãnh
sự quán Mỹ ở VN để tuồn thông tin, vu cáo chế độ ta, xin chỉ đạo và tài trợ cho
hoạt động của mình. Các tổ chức hướng đạo Công giáo, Cao Đài, Tin Lành công
khai dùng phương pháp hoạt động hướng đạo để giáo dục tôn giáo, thực hiện tôn
chỉ của các giáo hội được các giáo xứ và nhà thờ ủng hộ mạnh mẽ về vật chất và
tinh thần..."; "... Hiện nay, ở nước ta đã có nhiều hội, đoàn thể với
đối tượng bao gồm mọi giới, mọi lứa tuổi đang hoạt động, nếu chính thức cho tái
lập thêm tổ chức hướng đạo thì sẽ dẫn đến tranh giành lực lượng, tranh giành
quần chúng giữa hướng đạo với các tổ chức đã có và tạo ra tiền lệ đa nguyên
trong tổ chức quần chúng, làm phức tạp thêm tình hình chính trị xã hội. Nếu tổ
chức hướng đạo được tái lập, các hội, đoàn khác như Gia đình Phật tử, Tịnh độ
Cư sĩ... cũng đòi hỏi được công nhận thì sẽ rất phức tạp. Vì vậy không đặt vấn
đề tái lập tổ chức hướng đạo, cũng như tránh lập thêm các hội, đoàn mới".
Căn
cứ vào Khoản 2, Điều 4 mới được quy định trong Hiến pháp 2013: "Đảng
CSVN..., chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về
những quyết định của mình"; và căn cứ vào Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng
hành chính 2010: "Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các
cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động
quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ
thể", tôi xin trình bày ý kiến phản biện đối với các nội dung trong
Thông báo 143-TB/TW như sau:
- "Từ sau kháng chiến chống Pháp,
ở miền Bắc tổ chức hướng đạo đã ngừng hoạt động và gia nhập Hội Liên hiệp Thanh
niên VN" : Nội dung này trong Thông báo 143-TB/TW nhằm phủ định
sự tồn tại của Hội HĐVN 1946 từ sau ngày thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên VN
năm 1957 mà không đưa ra được một căn cứ hay chứng cứ nào để chứng minh cho sự
"ngừng hoạt động" của Hội HĐVN 1946. Chúng ta đều biết rằng, trong
Luật La Mã đã hình thành nguyên tắc: "Trách nhiệm chứng minh thuộc về
người khẳng định, chứ không thuộc về người phủ định" (Ei incumbit probatio
qui dicit, non qui negat / The burden of the proof lies upon him who affirms,
not he who denies). Nguyên tắc này cũng được quy định tại Điều 79 Bộ luật tố
tụng dân sự về "nghĩa vụ chứng minh" và tại Điều 10 Bộ luật tố tụng
hình sự về "Xác định sự thật của vụ án" theo đó "trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng...". Do Thông
báo 143-TB/TW không nêu ra được căn cứ hay chứng cứ hợp pháp để chứng minh rằng
Hội HĐVN 1946 đã "ngừng hoạt động" nên nội dung "Từ sau kháng
chiến chống Pháp, ở miền Bắc tổ chức hướng đạo đã ngừng hoạt động" bị
coi là lời nói "thất thiệt" cho đến khi Ban Bí thư TW đưa ra được
chứng cứ hợp pháp về sự ngừng hoạt động của Hội HĐVN 1946. Thêm nữa, ngay phần
nội dung tiếp theo là "...và gia nhập Hội Liên hiệp Thanh niên VN"
lại chứng minh sự tồn tại hợp pháp của Hội HĐVN 1946 sau khi đã "gia
nhập" Hội LHTNVN. Bởi vì chúng ta đều biết trong Bộ luật dân sự 1995 và Bộ
luật dân sự 2005; cũng như trong Nghị định 88/2003 và Nghị định 45/2010 đều có
quy định về các trường hợp chấm dứt pháp nhân, chấm dứt hội là: hợp nhất, sáp
nhập, chia, giải thể, phá sản. Không thấy có văn bản pháp luật nào quy định
rằng một pháp nhân khi "gia nhập" vào một pháp nhân khác lại bị chấm
dứt pháp nhân của mình. Có thể đã có sự hiểu sai về khái niệm pháp lý "gia
nhập" là đồng nghĩa với "sáp nhập" trong nội dung này của Thông
báo 143-TB/TW. Bởi vì, ngay trong Điều lệ của Hội LHTNVN cũng có nói rõ: "Hội
LHTNVN là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên và các tổ chức thanh
niên VN..."; trong đó bao gồm 2 loại hội viên là cá nhân
"công dân" và "thành viên tập thể của hội". Hội HĐVN 1946
chính là thành viên tập thể của Hội LHTNVN. Chưa cần xem xét đến các chứng cứ
khác như Thẻ đại biểu của Hội HĐVN 1946 tham dự Đại hội toàn quốc Hội LHTNVN
lần thứ 2 năm 1961 và văn bản của Hội HĐVN 1946 ngày 5/2/1965 đã bác bỏ nội
dung này ... Như vậy, ngay trong nội dung "Từ sau kháng chiến chống
Pháp, ở miền Bắc tổ chức hướng đạo đã ngừng hoạt động và gia nhập Hội Liên hiệp
Thanh niên Việt Nam" của Thông báo 143-TB/TW đã cho thấy không dựa vào
một căn cứ hay chứng cứ pháp lý nào để chứng minh cho lời nói này; đó là chưa
nói đến các chứng cứ khác đã bác bỏ hoàn toàn nội dung này như: thẻ đại biểu
của Hội HĐVN 1946 tham dự Đại hội toàn quốc Hội LHTNVN lần thứ 2 năm 1961 và
văn bản của Hội HĐVN 1946 ngày 5/2/1965 chứng minh sự tồn tại hợp pháp của Hội
HĐVN 1946 sau khi gia nhập Hội LHTNVN.
- "... trong khi ở miền Nam hoạt
động hướng đạo tiếp tục phát triển và phân hóa, ngoài tổ chức hướng đạo chính
thống, Mỹ ngụy xây dựng các loại hướng đạo trong tôn giáo, quân đội, cảnh
sát... Sau năm 1975 tất cả các tổ chức này mặc nhiên giải thể.": Như
đã trình bày ở phần trên, ở miền Nam VN chỉ có một Hội HĐVN duy nhất có tư cách
pháp nhân được thành lập hợp pháp năm 1953, những loại hình gọi là "hướng
đạo trong tôn giáo" như trong Thông báo 143 đề cập chỉ là sự "ăn theo
tiếng thơm" của Hội HĐVN mà thôi. Các tôn giáo ở VN hiện nay, nếu muốn
thành lập các hội đoàn tương tự như Hội HĐVN, nay đã có quyền thành lập hội
đoàn cho riêng mình theo quy định tại Khoản 6 Điều 3 của Pháp lệnh Tín ngưỡng,
Tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/6/2004 mà không cần phải làm thủ tục
xin phép theo Nghị định của Chính phủ số 88/2004/NĐ-CP ngày 30/7/2004. Chỉ có
những loại hình "HĐ Cảnh sát" và "HĐ Quân đội" mang tính
chất chính trị ngay trong tên gọi là trái với tôn chỉ "phi chính trị"
của Hội HĐVN 1953 nên mới "mặc nhiên giải thể" cùng với lực lượng
cảnh sát và quân đội của chính thể VNCH sau năm 1975. Do đó, Thông báo 143 nói
rằng "Sau năm 1975 tất cả các tổ chức này mặc nhiên giải thể" bao
gồm cả Hội HĐVN 1953 là cố ý quy chụp theo kiểu "vơ đũa cả nắm" chớ
không dựa trên căn cứ hoặc chứng gứ hợp pháp nào cả.
- "Trong các nhóm hướng đạo nói
trên, ngoại trừ nhóm hướng đạo chính thống, các hệ phái hướng đạo khác ở Tp.
HCM hiện nay đều có gắn với tôn giáo, tâm linh, hoạt động có tính chính trị.
Nhiều tổ chức có quan hệ móc nối với các phần tử phản động và số cầm đầu các
nhóm hướng đạo ở hải ngoại và với tổ chức hướng đạo thế giới, với sứ quán, lãnh
sự quán Mỹ ở VN để tuồn thông tin, vu cáo chế độ ta, xin chỉ đạo và tài trợ cho
hoạt động của mình. Các tổ chức hướng đạo Công giáo, Cao Đài, Tin Lành công
khai dùng phương pháp hoạt động hướng đạo để giáo dục tôn giáo, thực hiện tôn
chỉ của các giáo hội được các giáo xứ và nhà thờ ủng hộ mạnh mẽ về vật chất và
tinh thần...": Nội dung này của
Thông báo 143 đã đề cập đến trường hợp những hành vi, của những cá nhân nào đó
lợi dụng danh nghĩa của tổ chức hoặc phe nhóm vi phạm pháp luật quốc gia hoặc
xâm phạm an ninh quốc gia. Đây chỉ là những lời quy chụp chính trị cho Hội HĐVN
mà thôi chớ chúng ta đều biết rằng trong Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN có
quy định về "Cơ sở của trách nhiệm hình sự" tại Điều 2 như sau: "Chỉ
người nào phạm một hay nhiều tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự". Tức là trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng cho cá
nhân, cho "người nào", chớ pháp nhân như Hội HĐVN không phải chịu
trách nhiệm hình sự. Trong Phong trào Hướng Đạo VN từ sau 1975 đến nay, chưa
nghe đến trường hợp có một Hướng Đạo sinh nào - bao gồm huynh trưởng và đoàn
sinh, bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì "hoạt động hướng đạo" như
Thông báo 143 đề cập. Cũng theo quy định của Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự "Không
ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật"; và trong thực tế, chưa nghe nói
đến trường hợp một HĐS nào của Hội HĐVN 1953 sau năm 1975 đã bị kết án do hành
vi như được mô tả trong Thông báo 143.
- "Hiện nay, ở nước ta đã có
nhiều hội, đoàn thể với đối tượng bao gồm mọi giới, mọi lứa tuổi đang hoạt
động, nếu chính thức cho tái lập thêm tổ chức hướng đạo thì sẽ dẫn đến tranh
giành lực lượng, tranh giành quần chúng giữa hướng đạo với các tổ chức đã có và
tạo ra tiền lệ đa nguyên trong tổ chức quần chúng, làm phức tạp thêm tình hình
chính trị xã hội. Nếu tổ chức hướng đạo được tái lập, các hội, đoàn khác như
Gia đình Phật tử, Tịnh độ Cư sĩ... cũng đòi hỏi được công nhận thì sẽ rất phức
tạp. Vì vậy không đặt vấn đề tái lập tổ chức hướng đạo, cũng như tránh lập thêm
các hội, đoàn mới". Luận cứ trong nội dung này của Thông báo 143 là
hoàn toàn không chính xác và mâu thuẫn ngay với chính mình. Xin được dẫn chứng:
Ở phần đầu Thông báo 143 xác định rằng "Hoạt động hướng đạo du nhập vào
VN từ đầu thế kỷ 20" ... và Phong trào Hướng Đạo đã hoạt động liên tục
từ đầu thế kỷ 20 cho đến đầu thế kỷ 21 là ngày có Thông báo 143 (20/4/2004);
vậy sao có thể nói rằng "nếu cho tái lập thêm tổ chức hướng đạo thì sẽ
... tạo ra tiền lệ đa nguyên trong tổ chức quần chúng" ? Còn
Gia đình Phật tử và Tịnh độ Cư sĩ đã hoạt động hợp pháp trong Giáo hội Phật
giáo VN từ năm 1997-1998 với Quy chế riêng, được ghi vào Hiến chương Giáo
hội Phật giáo Việt Nam (Chương V Điều 19, nay là Điều 21), sao Thông báo
143 lại nêu ra trường hợp này một cách bất cập như vậy ? Còn nếu
căn cứ vào thông tin báo Pháp luật Tp.HCM đăng tải tại trang 3, ngày 5/12/2013
về số lượng "hội quần chúng" mà Bộ Nội vụ đã rà soát được vào cuối
năm 2013: "Kết quả rà soát của Bộ Nội vụ cho thấy cả nước hiện có 460 hội
hoạt động ở phạm vi toàn quốc, hơn 2.900 hội hoạt động ở phạm vi tỉnh, gần
5.200 hội quy mô huyện và hơn 28.300 hội cấp xã. Trong số này, khá nhiều tổ
chức là do Đảng thành lập hoặc chỉ đạo thành lập, được giao thực hiện các nhiệm
vụ chính trị-xã hội, có tham gia vào xây dựng chủ trương, chính sách, pháp
luật..." (11), thì lập luận trong Thông báo 143 rằng "nếu
chính thức cho tái lập thêm tổ chức hướng đạo thì sẽ dẫn đến tranh giành lực
lượng, tranh giành quần chúng giữa hướng đạo với các tổ chức đã có và tạo ra
tiền lệ đa nguyên trong tổ chức quần chúng, làm phức tạp thêm tình hình chính
trị xã hội" sẽ là một lập luận hoàn toàn không có căn cứ
và trái với sự thật khách quan.
Tóm lại, cùng chung số phận với nhân dân
và đất nước Việt Nam từ 1945 đến 1975, Hội HĐVN đã từng bị chia cắt làm hai và
có cơ hội hợp nhất sau ngày đất nước thống nhất năm 1975. Các huynh trưởng của
Hội HĐVN đã nhiều lần gởi đơn, thư, kiến nghị đến lãnh đạo tổ chức Đảng CSVN và
cơ quan Nhà nước VN trong suốt hơn 20 năm để xin phép tái lập hội. Nhưng trước
nguyện vọng chính đáng và hợp pháp đó của các huynh trưởng HĐVN, các lãnh đạo
Đảng CSVN và Nhà nước VN đã im lặng, không thèm trả lời. Tình hình này cũng đã
được Thông báo 143-TB/TW ngày 20/4/2004 xác nhận "Nhiều nhóm đã liên tục
gởi đơn xin phép chính quyền cho phép tái lập, mặt khác không ngừng hoạt động
ngầm để phát triển lực lượng một cách tự phát ngoài khuôn khổ pháp luật, chuẩn
bị chờ Nhà nước cho phép tái lập". Đến khi Chính phủ ban hành Nghị
định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý
hội thì Ban Bí thư TW đã nhanh chóng (chỉ hơn 8 tháng sau) đưa ra Thông báo
143-TB/TW thể hiện ý chí, động cơ không chính đáng, trái với sự thật khách quan
và trái pháp luật là không muốn "tạo ra tiền lệ đa nguyên trong tổ chức
quần chúng". Thông báo 143 đã đưa ra lý do giả tạo, không có căn cứ và
chứng cứ hợp pháp về trường hợp Hội HĐVN 1946 là "Từ sau kháng chiến
chống Pháp, ở miền Bắc tổ chức hướng đạo đã ngừng hoạt động và gia nhập Hội
Liên hiệp Thanh niên VN". Thông báo 143 cũng đã đưa ra những quy chụp
chính trị chớ không chứng minh được là đã có hành vi vi phạm pháp luật gì của
tổ chức xã hội "không hoạt động và cổ động chính trị" là Hội HĐVN
1953 ở miền Nam. Từ đó, Thông báo 143 đã có quyết định: "Vì vậy không
đặt vấn đề tái lập tổ chức hướng đạo, cũng như tránh lập thêm các hội, đoàn
mới"; và chỉ đạo các tổ chức Đảng CSVN và cơ quan Nhà nước VN thực
hiện quyết định này: "Giao Ban Dân vận Trung ương theo hướng trên đây
chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc VN, Bộ Nội vụ, các đoàn thể, ban ngành
có liên quan và cấp ủy của các địa phương có các tổ chức hướng đạo đang hoạt
động chuẩn bị đề án tổng thể để giải quyết vấn đề này trình Ban Bí thư vào cuối
quý II năm 2004". Nội dung "giải quyết vấn đề này" trong
Thông báo 143 bao hàm ý nghĩa "ngăn cấm, xóa bỏ hoạt động hướng đạo",
tức là "xâm phạm quyền tự do lập hội của HĐS Việt Nam" được quy định
trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật của VN và Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị 1966. Do đó, căn cứ vào quy định của Luật tố tụng hành
chính tại Điều 3 và Điều 5, coi Thông báo 143-TB/TW là một "quyết định
hành chính" và các cá nhân, tổ chức là các Hướng Đạo sinh và Hội HĐVN được
quyền khởi kiện vụ ánh hành chính đối với Thông báo 143-TB/TW để yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo Luật tố tụng hành chính. Ngoài ra,
Điều 7 Sắc lệnh 102 năm 1957 và Điều 129 Bộ luật hình sự cũng quy định "Người
nào xâm phạm đến quyền lập hội..." hoặc "Người nào có hành
vi cản trở công dân thực hiện quyền lập hội...", tức là có bao gồm cả
những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức ...đã làm ra các
quyết định hành chính xâm phạm đến quyền lập hội của công dân, cản trở công dân
thực hiện quyền lập hội, có thể bị truy tố trước Tòa án theo Điều 7 Sắc lệnh
102 năm 1957 hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 129 BLHS.
b/ Thông báo số 157-TB/TW ngày 20/5/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng CSVN:
Sau 4 năm chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính
quyền các cấp, các đoàn thể quần chúng triển khai thực hiện chủ trương trong
Thông báo 143-TB/TW ngày 20/4/2004 của Ban Bí thư TW. "Tuy nhiên, việc
thực hiện chủ trương trên vẫn còn nhiều hạn chế", "việc giải
quyết vấn đề hướng đạo chưa mang lại kết quả như mong muốn" nên Ban Bí
thư TW tiếp tục có Thông báo số 157-TB/TW ngày 20/5/2008 để chỉ đạo "Ban
cán sự đảng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Ban Dân vận Trung ương Mặt trận Tổ
quốc VN, Đoàn Thanh niên CS HCM, các đoàn thể, ban, ngành có liên quan và các
tỉnh ủy, thành ủy có hoạt động hướng đạo, lập kế hoạch cụ thể thực hiện
chủ trương không tái lập tổ chức hướng đạo". Trong Thông báo số
157-TB/TW ngày 20/5/2008 Ban Bí thư TW chỉ đạo 7 nội dung, riêng nội dung thứ 4
là rất đặc biệt, xin được trích dẫn:
"4- Đoàn Thanh niên Công sản Hồ
Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào
tạo nghiên cứu, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, rèn luyện thanh niên,
thiếu niên, nhi đồng; tiếp thu có chọn lọc hình thức, phương pháp của hướng
đạo trong giáo dục và tổ chức hoạt động của thanh thiếu niên; đáp ứng tốt
hơn nhu cầu đa dạng, chính đáng về sinh hoạt vui chơi, giải trí lành mạnh, bổ
ích, thu hút thế hệ trẻ tham gia vào các hoạt động của tổ chức đoàn, hội, đội."
Nội dung số 4 Thông báo 157 là một sự
công nhận của Ban Bí Thư TW rằng Hội HĐVN đã sở hữu một "hình thức và
phương pháp giáo dục" vô cùng bổ ích cho thanh thiếu niên, cần phải đưa
vào áp dụng trong hoạt động của tổ chức đoàn, hội, đội. Tuy nhiên, bên cạnh
việc lập lại chỉ đạo các tổ chức đảng, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể tiếp
tục thực hiện những hành vi cản trở, xâm phạm đến quyền lập hội của HĐS VN như
tại Thông báo 143 trước, trong Thông báo 157 này còn cho thấy một việc làm rất
đáng chê trách về mặt đạo lý; đó là việc làm tương tự như trong "câu
chuyện tham lam và độc ác giết con gà hàng xóm, mổ bụng lấy trứng vàng đặt vào
bụng gà nhà mình". Đã từng có "tiền lệ" là các
tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Tin Lành và các lực lương chính trị
như Cảnh sát, Quân đội dưới chính thể VNCH cũng "tiếp thu hình thức,
phương pháp hướng đạo trong giáo dục và tổ chức hoạt động của thanh thiếu
niên" trong tôn giáo và lực lượng của mình nhưng không có tôn giáo hay
lực lượng nào đòi "cắt cổ, mổ bụng" Hội HĐVN để lấy "trứng
vàng" cả.
Nhân đây, xin được trình bày thêm về cái
gọi là "phương pháp hướng đạo". Trong bản "Dự thảo Điều lệ Hội
HĐVN" (14/02/2014) do một số huynh trưởng HĐVN biên soạn, đã định nghĩa về
"Phương pháp Hướng Đạo" như sau:
"Phương pháp Hướng Đạo là một hệ
thống tự giáo dục tiến bộ bằng cách:
- Giữ Lời Hứa và Luật Hướng Đạo.
- Học hỏi bằng thực hành.
- Tổ chức theo hàng đội tự quản
dưới sự hướng dẫn của huynh trưởng để biết dấn thân, khám phá tiến bộ và nắm
được các kỹ năng sống; biết phát huy chí khí, tính tự lực và tinh thần trách
nhiệm; biết tạo lập sự tin cậy, khả năng hợp tác và lãnh đạo.
- Tham gia những sinh hoạt hào hứng
theo sở thích bằng các trò chơi ngoài trời tiếp xúc với thiên nhiên, những hoạt
động hữu ích cho cộng đồng, những công tác xã hội thiện nguyện."
Trong "Phương
pháp Hướng Đạo" bao gồm 2 nguyên tắc quan trọng, thể hiện trong "Lời
Hứa Hướng Đạo" và "Luật Hướng Đạo" là:
- Nguyên tắc "Bổn phận đối với tha nhân"
(Duty to others) được thể hiện trong một phần của Lời Hứa: "Giúp ích
mọi người bất cứ lúc nào".
- Nguyên tắc "Bổn phận đối với bản thân"
(Duty to self) được thể hiện trong 10 điều Luật Hướng Đạo nhưng đặc biệt nhất
là Điều số 10: "Hướng Đạo sinh trong sạch từ tư tưởng, lời nói đến việc
làm."
"Phương
pháp Hướng Đạo" có những tính chất rất đặc biệt mà không một tổ chức nào
khác trên thế giới có được từ trước đến nay. Tuy nhiên, với nguyên tăc
"Giúp ích mọi người bất cứ lúc nào" nên Hội HĐVN luôn luôn hoan
nghênh các tổ chức khác áp dụng "hình thức, phương pháp hướng đạo" để
giáo dục và tổ chức hoạt động của thanh thiếu niên trong tổ chức mình. Hội HĐVN
chưa bao giờ thể hiện sự "độc quyền chân lý" và ngăn cản các tổ chức
khác áp dụng các "hình thức và phương pháp hướng đạo" của hội mình.
c/
Bản Kế hoạch số 47-KH/TU ngày 20/4/2009 của Thành ủy Tp.Hồ Chí Minh:
Lý do Thành ủy TP.HCM lập ra bản Kế hoạch
- dài 4 trang giấy, được nêu ra ngay ở phần đầu là "Để nghiêm túc triển
khai thực hiện Thông báo số 157-TB/TW ngày 20/5/2008 của Ban Bí thư TW về hoạt
động hướng đạo hiện nay tại một số tỉnh, thành phố...". Có nhiều nội
dung được ghi trong bản Kế hoạch của Thành ủy bao gồm công tác phổ biến, quán
triệt và biện pháp tổ chức thực hiện Thông báo số 157-TB/TW ngày 20/5/2008 mà
tôi không thể kể hết ra đây được nên chỉ xin nêu ra nội dung đặc biệt tại khoản
3.3 và 2.4 trong bản Kế hoạch này tương tự như câu chuyện giết con gà của người
khác lấy trứng vàng đưa vào bụng gà mình như sau:
- "3.3 Thành đoàn tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn TNCS HCM, Hội LHTN, Đội Thiếu niên
TP HCM. Tiếp thu có chọn lọc hình thức, phương pháp hướng đạo... Tiếp tục xây
dựng, phát huy, nhân rộng mô hình Câu lạc bộ Sao Bắc đẩu từ thành phố
đến các quận, huyện."
Câu lạc bộ Sao Bắc đẩu được Thành đoàn
Tp.HCM lập ra có hình thức sinh hoạt và đồng phục không khác gì với các đơn vị
Hướng Đạo Hội HĐVN. Các em trong Câu lạc bộ Sao Bắc đẩu được công khai sinh
hoạt trong các công viên, các địa điểm công cộng từ thành phố đến các quận,
huyện; được ngân sách hổ trợ kinh phí hoạt động.
- Trong khi đó: "2.4 Đối với các
tôn giáo có tổ chức hướng đạo, các chức sắc tôn giáo phụ trách các liên đoàn,
hướng đạo Công giáo, giao Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo - Dân tộc) nắm tình hình và
vận động, giải thích, đấu tranh.". Ở đây, xin được nêu ra trường hợp
cụ thể của Đạo Xuân Hòa thuộc Hội HĐVN, được thành lập từ năm 1957, là đơn vị
Đạo trong Châu Gia Định. Từ 1975 đến 1980, Đạo Xuân Hòa tạm ngưng hoạt động
nhưng từ 1980, Đạo Xuân Hòa là đơn vị đầu tiên phục hoạt dưới sự hướng dẫn của
Đạo trưởng Trần Văn Hợp. Trong Đạo Xuân Hòa có số đông đoàn sinh và huynh
trưởng theo đạo Công giáo nên thường sinh hoạt "chui"
trong các cơ sở tôn giáo để tránh sự xua đuổi của chính quyền. Trưởng Trần Văn
Hợp đã từng bị chính quyền, công an mời lên "đấu tranh" gần cả chục
lần về các "hoạt động hướng đạo". Xin được trích dẫn biên bản cuộc
họp ngày 23/4/2004 tại Giáo xứ Tân Định, Quận 3, Tp.HCM, để có thể thấy được
phần nào hình ảnh các em Hướng Đạo sinh theo đạo Công giáo bị chính quyền
"đấu tranh" qua lời của một nữ huynh trưởng HĐ và một Linh mục huynh
trưởng HĐ thuộc Gia đình Hướng Đạo Xuân Hòa:
"Trưởng Võ Thị Thanh Thủy:
Chúng con đại diện cho Đạo Biển Đông rất đồng tình với Trưởng Đức và Trưởng
Hiến. Chúng con thấy rằng chúng con sinh hoạt rất là khổ sở, có những lúc chúng
con phải chui vào nhà cốt để sinh hoạt. Phải mặc thường phục, thậm chí phải chế
ra các loại áo thung thêu hoa Bách hợp nho nhỏ. Chúng con chơi trong các
giáo xứ được các cha xứ ủng hộ."
"Linh mục Trần
Văn Hộ: ... Các nơi chơi lén, như Liên đoàn của chị Tâm sinh hoạt
tại giáo xứ Hòa Bình của tôi tại khu vườn ngoài nghĩa địa, nhưng tôi
nhắc chị Tâm nếu cho các em đeo phù hiệu thì tôi biết ăn nói làm sao, còn chơi
cứ việc chơi. Nhưng chị Tâm nói, thỉnh thoảng phải làm như vậy các em mới
thích. Nói vậy chứ tôi vẫn ủng hộ. Thực tế tôi cũng bị mời làm việc để hỏi tôi
có phải Tuyên úy HĐ không. Tôi vẫn trả lời có, và tôi cũng nói cho họ biết tôi
đã tham dự lễ truy điệu cụ Hoàng Đạo Thúy, Đại tá Quân đội Cụ Hồ là một Trưởng
cao cấp trong Hội HĐVN." (12)
Chắc rằng trong số trên 200 tổ chức Hướng
Đạo thuộc các quốc gia, vùng, lãnh thổ trên thế giới, không có nơi nào mà các
em HĐS "phải chui vào nhà cốt để sinh hoạt" hoặc "chơi lén ngoài
nghĩa địa" của các giáo xứ, nhờ sự che chở của các cha xứ và phải hóa
trang "mặc thường phục, thậm chí phải chế ra các loại áo thung thêu hoa
Bách Hợp nho nhỏ" (hoa Bách Hợp là huy hiệu chính thức của Hội HĐVN) !
Trong trả lời của Linh mục Trần Văn Hộ, có nhắc đến "cụ Hoàng Đạo Thúy,
Đại tá Quân đội Cụ Hồ là một Trưởng cao cấp trong Hội HĐVN" nhưng không
thấy nêu ra tên vị "DANH DỰ HỘi TRƯỞNG" Hội HĐVN, vì sợ phạm húy
chăng ?
Đọc hết nội dung bản Kế hoạch dài 4 trang
ngày 20/4/2009 của Thành ủy Tp.HCM nhằm "xóa sổ" hoạt động hướng đạo
trên địa bàn dễ tạo cảm giác "dùng dao mổ trâu để giết gà". Và mặc dù
phải chịu đựng bao hệ quả khắc nghiệt của các Thông báo và Kế hoạch của tổ chức
Đảng CSVN, con gà Phong trào HĐVN vẫn sống sót, được các quốc gia thuộc ASEAN
mời tham gia thành lập Hội Hướng Đạo các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN Scout
Association for Regional Co-operation ( viết tắc ASARC). Trưởng Phạm Thanh Hiệp
đã đại diện cho HĐVN cùng ký tên với 7 đại diện của các Hội Hướng Đạo quốc gia
trong khu vực ASEAN trên bản Hiến chương ngày 4/12/2010 của ASARC. Do Phong
trào HĐVN chưa được chính quyền VN cấp phép hoạt động chính thức nên Phong trào
HĐVN chỉ được ASARC công nhận tư cách là "Quan sát viên" (Observer)
mà thôi. (13)
2/ Các văn bản của cơ quan Nhà nước
Việt Nam:
a/ Văn bản số 1507/BVHTTDL-TCCB ngày 17/5/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch: (14)
Đây là một "quyết định hành
chính" theo quy định của Luật tố tụng hành chính, khi Bộ VHTT&DL trả
lời bác Đơn xin phép cho tiếp tục phục hồi "chơi hướng đạo" - tức là
tái lập Hội HĐVN, do ông Đặng Văn Việt nộp cho Bộ VHTT&DL. Nội dung lý do
bác đơn của Bộ VH,TT&DL là: "Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có thông
báo về hoạt động hướng đạo hiện nay tại một số tỉnh, thành phố và chỉ rõ:
'không đặt vấn đề tái lập tổ chức hướng đạo cũng như thành lập thêm các hội,
đoàn mới'. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thông báo để ông biết".
Bất
cứ ai đọc nội dung văn bản trả lời của Bộ VHTT&DL cũng đều nhận thấy là Bộ
VHTT&DL đã không biết hoặc không cần biết đến Hiến pháp và các văn bản pháp
luật khác quy định về "quyền tự do lập hội" mà công dân Đặng Văn Việt
được bảo hộ. Bộ VHTT&DL cho thấy chỉ viện dẫn Thông báo của Ban Bí thư TW
Đảng CSVN là đủ. Văn bản trả lời của Bộ VHTT&DL mặc định rằng Thông báo của
Ban Bí thư TW Đảng CSVN có hiệu lực pháp lý cao hơn Hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác của nước CHXHCNVN quy định quyền tự do lập hội của công dân Đặng
Văn Việt.
Từ ngày Bộ VHTT&DL ra "quyết
định hành chính" này (17/5/2011), không thấy ông Đặng Văn Việt nộp đơn
khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính của Bộ VHTT&DL bác
đơn xin tái lập Hội HĐVN của ông; bao hàm cả Thông báo của Ban Bí thư TW được
Bộ VHTT&DL viện dẫn làm căn cứ pháp lý trong văn bản của mình. Đây cũng là
lần đầu tiên, một cơ quan cấp Bộ chính thức đưa ra một quyết định hành chính về
việc "xin tái lập Hội HĐVN" mà chỉ viện dẫn một Thông báo của Ban Bí
thư TW Đảng CSVN vượt ra ngoài "khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" để
làm căn cứ cho quyết định hành chính của mình.
b/
Văn bản số 164/SNV-VP ngày 08/02/2013 của Sở Nội vụ Tp.Hồ Chí Minh: (15)
Đây cũng là một "quyết định hành
chính" theo quy định của Luật tố tụng hành chính, theo đó, Sở Nội vụ
Tp.HCM trả lời bác đơn xin thành lập "Hội Hướng Đạo sinh thành phố Hồ Chí
Minh" của ông Phạm Thanh Hiệp. Nội dung lý do bác đơn của Sở Nội vụ Tp.HCM
là: "vì hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều tổ chức hoạt
động của giới trẻ như Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên, Hội Sinh viên".
Với
lý do nêu ra để bác đơn của Sở Nội vụ Tp.HCM hẳn là mỗi người đều có thể tự đưa
ra những "phản biện" rất thú vị. Ở đây, xin nêu ra vài điểm đáng lưu
ý:
- Ông Phạm Thanh Hiệp và Phong trào HĐVN
có thể được các nước ASEAN chấp nhận tham gia ASARC với tư cách "Quan sát
viên" nhưng vẫn không được Sở Nội vụ Tp.HCM cho phép lập hội vì xét thấy
không cần một tổ chức như Hội Hướng Đạo sinh cho thanh thiếu niên thành phố do
ông Hiệp đứng xin thành lập.
- Cho dù "Kết quả ra soát của Bộ
Nội vụ cho thấy cả nước hiện có 460 hội hoạt động ở phạm vi toàn quốc, hơn
2.900 hội hoạt đông ở phạm vi tỉnh, gần 5.200 hội quy mô huyện và hơn 28.300
hội cấp xã" nhưng trong số "hơn 2.900 hội hoạt động ở phạm vi
tỉnh", Sở Nội vụ Tp.HCM vẫn không tìm thấy còn chỗ trống cấp phép cho
"Hội Hướng Đạo sinh Tp.HCM" của ông Phạm Thanh Hiệp (!). Cho dù ông
Hiệp có viện dẫn đến vị "DANH DỰ HỘI TRƯỞNG" Hội HĐVN trong đơn và
những điều tốt đẹp mà hoạt động hướng đạo đã đóng góp vào việc giáo dục thanh
thiếu niên kể từ khi "du nhập vào VN từ đầu thế kỷ 20" - khi chưa có
Đoàn TNCSHCM, nhưng Sở Nội vụ Tp.HCM vẫn trả lời ông Hiệp là "hết
vé".
Cũng giống như trường hợp ông Đặng Văn
Việt, sau khi bị bác đơn, ông Phạm Thanh Hiệp không "kiện cáo" gì với
quyết định hành chính của Sở Nội vụ Tp.HCM mặc dù Luật tố tụng hành chính có
quy định quyền khởi kiện vụ án hành chính của công dân Phạm Thanh Hiệp trong
trường hợp bị bác đơn này.
Trên đây là khảo cứu của một cựu Hướng
Đạo sinh Hội HĐVN về những khía cạnh pháp lý và lịch sử liên quan đến Hội Hướng
Đạo Việt Nam từ khi được thành lập chính thức năm 1946 đến nay nhằm có thể tìm
thấy được sự thật khách quan cho câu hỏi làm tựa đề bài viết: "Quyền tự do
lập hội của các Hướng Đạo sinh Việt Nam bị xâm phạm như thế nào ?"
NL (11/2014)
---------------------------------------
(1)
Hồ Chí Minh toàn tập / tập 4, trang 573 - Thư gửi Hội trưởng Hội HĐVN của Chủ
tịch Chính phủ Việt Nam Hồ Chí Minh ngày 31/5/1946 nhận làm Danh Dự Hội Trưởng
cho Hội HĐVN.
(2),
(3), (9) Theo wikipedia tiếng Việt.
(4)
Trích dẫn Điều thứ 1 trong bản Điều lệ (Quy trình) của Hội HĐVN.
(5)
Phóng ảnh 2 Thể đại biểu năm 1957 và 1961 của Hội HĐVN tham dự Đại hội Hội
LHTNVN.
(6)
Phóng ảnh văn bản ngày 5/2/1965 của Hội HĐVN 1946.
(7)
Tập tài liệu "Văn thư - Văn bản kiến nghị phục hoạt Hướng Đạo Việt Nam từ
năm 1975 - 2012", từ trang 64 đến 74 (Phan Đức Đô sưu tập biên soạn).
(8)
Hình chụp Ban Liên lạc Lâm thời Hướng Đạo Việt Nam tổ chức họp mặt với hơn 200
ACE Hướng Đạo cũ (Hội HĐVN 1946) tại hội trường lớn Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh,
Hà Nội, ngày 19/12/1991.
(11) Trang 3, báo Pháp luật Tp.HCM ngày 5/12/2013 với
góc bài có thống kê số lượng các hội quần chúng.
(12) Phóng ảnh biên bản ghi lời của Trưởng Võ Thị
Thanh Thủy (trang 106, tài liệu của GHX sưu tầm)
... và lời của Linh mục
Trần Văn Hộ (trang 109, tài liệu của GHX sưu tầm)
(13) Phóng ảnh chữ ký 8 huynh trưởng Đại diện HĐ ASEAN
và HĐVN trên bản Hiến chương thành lập ASARC ngày 4/12/2010.
Đại diện HĐVN ký ở chỗ
cuối, dưới chữ OBSERVER.
(14) Phóng ảnh Văn bản số 1507/BVHTTDL-TCCB ngày
17/5/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
(15) Phóng ảnh Văn bản số 164/SNV-VP ngày 08/02/2013
của Sở Nội vụ Tp.HCM: